Thứ Bảy, 20 tháng 4, 2013

Cảm hứng thời đại – Sức sống của tác phẩm qua một số bài thơ




Cảm hứng thời đại – Sức sống của tác phẩm  qua một số bài thơ

Dòng chảy lịch sử 4000 năm, đã thành nguồn nội lực thúc đẩy cho cảm hứng sáng tạo hừng lên từ sâu tâm khảm mỗi nhà thơ, mỗi thế hệ thi nhân. Chính tấm lòng khao khát sáng tạo, cống hiến, tiếp nối dựng xây truyền thống ngàn năm mà biểu hiện cao nhất của nó là tinh thần yêu hoà bình, yêu tự do, độc lập, yêu đất nước đã kết tinh thành nguồn cảm hứng thời đại cho dân tộc Việt những áng văn bất hủ. Tinh thần ấy, nguồn cảm hứng thời đại ấy đã chắp cánh cho câu thơ thần của Lý Thường Kiệt vang vang trên sóng nước Như Nguyệt:
Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư
 Như hà lỗ nghịch lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư,
Âm hưởng hào sảng, tự tôn, tự tại của những câu thơ đã khiến quân xâm lược Tống phải run sợ đến tan rã ý chí xâm chiếm cõi bờ Đại Việt. Hơn 400 năm sau, cũng từ luồng cảm hứng ấy Nguyễn Trãi đã thổi hơi thở thời đại đang hừng hực trỗi dậy vào Bình Ngô cáo thành sức mạnh của bản tuyên ngôn về sự toàn vẹn lãnh thổ và độc lập dân tộc đầu tiên (bằng văn bản): Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần đã bao lần xây nền độc lập/ Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương/ Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau/ Song hào kiệt đời nào cũng có...
Qua 2 cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại của dân tộc những năm của thế kỷ trước, dòng chảy lịch sử 4000 năm một lần nữa ghi lại những trang hào hùng, chói loà. Những trang sử ấy là mục đích, là khởi nguồn cho cảm hứng thời đại thấm sâu vào từng trang viết, từng tác phẩm đều sáng hừng lên tâm thế thời đại, tâm thế của những người chủ nhân chính nghĩa của đất nước sẽ chiến thắng kẻ địch hung tàn. Chế Lan Viên đã sớm nhận ra, cảm được ý nghĩa to lớn cùng vai trò lịch sử của thế hệ mình: Những binh nhất binh nhì mười tám tuổi/ Giết quân thù không đợi có hạt nhân..., những chiến sĩ trên tuyến đầu cầm súng đối mặt với kẻ thù trong cuộc chiến không cân sức: Ta phải đọ sức với tên cường quốc nghìn tỷ đôla man rợ/ Chân máu 5 lần nó đổ bộ lên trăng... và ông ghi lại và khẳng định tâm thế thời đại ấy rất thành công: ...Lịch sử có nhiều năm nhiều tháng nhiều ngày/ Nhưng những năm tháng này chói loà, hoá thân, đột biến/ Mạnh như rốn bão, như Hoả  Diệm Sơn, như động biển/ như cấp số nhân, như tổng số thành/ như sức trăm ta nhân với triệu mình/ như vạn vật cộng vào nhau, rồng bay trái chín...
Ở những bài thơ Đất nước đời anh - tác giả Nguyễn Sĩ Đại (Phó Tổng biên tập báo Nhân dân); Bốn ngàn năm sử ký - tác giả Bùi Bá Tuân (Phó Giám đốc Trung tâm UNESSCO Đông Bắc); Non nước rồng bay - tác giả Phạm Hữu Lý (Viện phó Viện Vật lý TW), cũng minh chứng phần nào vấn đề đã đề cập ở trên, mục đích giúp bạn đọc có thể hiểu vấn đề thêm rõ ràng minh bạch mục tiêu chính của phần nghiên cứu các tác phẩm này, xin đi từ khái niệm cảm hứng thời đại người viết muốn đề cập tới (chỉ mang tính tiêu biểu cho phạm vi bài viết), có thể hiểu là cảm hứng sáng tạo nghệ thuật mang tính chung /tiêu biểu cho một hay nhiều tác phẩm cùng thể loại, cùng khoảng thời gian ra đời, và đều mang đượm hơi thở của thời đại họ đang sống, qua mỗi tác phẩm độc lập, riêng rẽ nhưng lại gặp nhau tại một điểm chung trong hệ quy chiếu lý tưởng nghệ thuật, cùng góp sức kiến tạo nên dòng ý thức sáng tạo mang tính chân lý thời đại. Điểm chung này được xem như cộng hưởng hoàn hảo của các tần số sóng tâm hồn, ánh lên giá trị thẩm mĩ cho mỗi tác phẩm /văn bản/ thơ, như một mặc định chung cho một đề tài, đồng thời đó, cũng có thể coi như một phương tiện để hiểu thêm cách thức các tác giả đạt tới mục đích nghệ thuật ở mỗi cấp độ...Khi đặt vấn đề tìm đến một khía cạnh nhỏ trong mạch cảm hứng sáng tạo chủ đạo xuất hiện như một hiện tượng văn học, tuy không mới mẻ nhưng lại có sức sống bền vững và đặc biệt là tiềm tàng khả năng kiến tạo dấu ấn thẩm mĩ nhất định /giá trị thẩm mĩ/ cho đối tượng tiếp nhận /người đọc/ ở một số văn bản sáng tác văn học gần đây (bài viết này chỉ đề cập đến các tác phẩm thuộc thể loại thơ) trong sự nghiệp sáng tác của một số tác giả mà người viết ngẫu nhiên tiếp cận tác phẩm qua các phương tiện truyền thông, văn bản, văn bản điện tử (cụ thể là những bài thơ, tập thơ), ở đó yếu tố cảm hứng thời đại liệu có đóng vai trò quyết định để làm lên giá trị /dấu ấn/ thẩm mĩ cho từng văn bản thơ, hay ảnh hưởng từ sự chi phối của nó tác động đến cảm thức sáng tạo của tác giả /chủ thể sáng tạo/ trong suốt quá trình tạo tác tác phẩm? theo một cơ chế nào? Có mang tính chung /tổng thể/ hay riêng rẽ theo từng bộ phận của mối tương quan các quan hệ xét đến (chẳng hạn ý thức dân tộc, ý thức truyền thống văn hoá, ý thức truyền thống phát triển tri thức lịch sử, xã hội của các tác giả /chủ thể sáng tạo tác phẩm/ và tấm lòng, ý thức khao khát hướng về cội nguồn...).
Hệ quy chiếu 4000 năm lịch sử đã tạo ra tiêu điểm chung mang tính tiêu biểu cho một số sáng tác trong khoảng thời gian những năm cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI.  Ở đó, trường cảm hứng thời đại chan hoà, thẩm thấm vào từng mạch thơ của mỗi tác giả, khi ý thức về nó những năm đầu thế kỷ này - thế kỷ của công nghệ và khoa học phát triển đến đỉnh cao của tốc độ cơn bão sóng âm. Điều đó thể hiện khá rõ qua thi pháp mà các tác giả sử dụng trong từng tác phẩm, cụ thể ở ba tác phẩm bài viết đề cập tới là những bài thơ Đất nước đời anh, Bốn ngàn năm sử ký, Non nước rồng bay, chất liệu truyền thống được kết tinh, lắng lọc trong cảm quan hiện thực cách mạng mà tính chính luận là nguồn sữa quý cấu thành nuôi dưỡng nên. Nếu ở  Đất nước đời anh của Nguyễn Sĩ Đại là biểu hiện của ý thức kế thừa truyền thống văn hoá: Anh ra đời, nước đã bốn nghìn năm/ Vó ngựa cuốn dập dồn trang cổ sử bằng giọng điệu riêng sâu lắng, trữ tình, đằm thắm mà triết lý nghiệm sinh dóng riết thành nguồn, thành mạch tái hiện lại không khí buổi đầu dựng nước, thì Phạm Hữu Lý với Non nước rồng bay là tri thức của sự thể nghiệm tiếp nối, từ giọng điệu riêng toát lên tinh thần tri ân truyền thống dân tộc sâu sắc, rất giàu nhạc tính, ngôn ngữ, hình ảnh thơ đã mô phỏng lại được quá trình mở nước (công cuộc mở mang bờ cõi và chống giặc ngoại xâm bảo vệ trọn vẹn cõi bờ) của cha ông với âm tiết hào sảng: Đất nước bốn ngàn năm/ Con cháu lạc hồng/ Mấy thuở vang trống đồng đuổi giặc/ Xuống bể /Lên ngàn/ Vào Nam/ Ra Bắc/ Mở cõi bờ xây non nước tươi xanh. Rất gần gũi với sự phát triển logic lịch sử là Bốn ngàn năm sử ký của Bùi Bá Tuân luôn bám sát đến tận cùng sự kiện, tính kế thừa truyền thống văn hoá được đẩy cao thành triết lý sáng tạo, qua mô hình phát triển trường sự kiện (Ngàn năm thăng long) trong trường sự kiện (trong bốn ngàn năm sử ký) đã khái quát, mô tả, mô phỏng, tái hiện quá trình giữ nước và sự phát triển hình thái xã hội: Ngàn năm thăng long trong bốn ngàn năm sử ký /Ý trí vua Hùng dựng nước Văn Lang/ An Dương Vương - Âu Lạc đăng đàn/ Đại Cồ Việt - Cờ bông lau - Đinh Bộ Lĩnh. Sự tinh tế, sâu sắc trong chọn lựa và tái hiện các mô hình thật thành những hình ảnh thơ bằng hệ thống ngôn từ, câu chữ được các tác giả chú trọng, sắp xếp theo mô típ chung như một mặc định ngầm, các sự kiện được phát triển đều quy về khởi điểm xuất phát của thời gian, sau đó dùng trường liên tưởng phát triển cảm xúc sáng tạo riêng mình theo các hướng không gian luôn tồn tại cùng trường thời gian mặc định đó.
Cuộc kháng chiến vệ quốc trong thế kỷ trước, dân tộc Việt phải đối đầu với tên xâm lược đế quốc Mỹ sừng sỏ thế giới với tham vọng bá chủ thế giới và dã tâm chia cắt lâu dài tình đồng bào, tình dân tộc. Song hành và bảo đảm cho âm mưu ấy, là các loại vũ khí giết người tối tân, hiện đại đã từng khuất phục hoặc nghiền nát nền tự do của bao nhiêu dân tộc trên thế giới, dồn ép các dân tộc chịu khuất phục ấy vào vòng tăm tối của kiếp sống nô nệ. Dân tộc Việt “thà hy sinh tất cả” chứ không thể và mãi mãi không chịu khuất phục trước cường quyền, bạo ngược là ý thức truyền thống, trở thành triết lý sống còn của cả dân tộc trong suốt bốn nghìn năm qua, Chế Lan Viên đã thức tỉnh và bắt nhịp cùng ý thức dân tộc: Thời đại khác rồi Đinh Bộ Lĩnh ơi/ Không thể đánh giặc bằng cờ bông lau được nữa/ Cũng không thể như ông cha cắm cọc Bạch Đằng. Nguồn cảm hứng thời đại đã rung từng hồi chuông báo, thức tỉnh trái tim thi sĩ thức dậy và vươn lên cùng thời đại, cùng cả dân tộc trong cuộc kháng chiến chính nghĩa này, những vần thơ Chế đã lĩnh hội được đầy đủ nhất những dao động của nhịp rung ấy để toả sáng vào lương tri và trái tim nhiều thế hệ con người trên dải đất hình chữ S này. Bước qua thế kỷ, vẫn nhịp rung ấy của ý thức dân tộc, nhưng trong các tác phẩm đầu thế kỷ đã có sự tán xạ và ánh xạ lại thêm nhiều góc độ quan chiêm mới, Nguyễn Sĩ Đại trở về với những ưu tư trăn trở của mình và ý thức dân tộc như những tia xạ nhỏ rải khắp tác phẩm: Người nặng quá lưu ly, nỗi đau từng hoá đá/...Ba tuổi cơm cà đi phá giặc ân/ ...Đáy hồ sâu cứ náu một gươm thần/...  Anh một mình không đi hết Nguyễn Du/ ...Bàn chân anh đi chưa đến cuối mắt nhìn.
Bùi Bá Tuân lại đau đáu tìm về dòng triết luận trí nhân, đại nghĩa với hướng nhìn chan chứa ánh nhân sinh, những chớp sáng rạch ròi, đa sắc như ánh lửa thiêng sáng trên đài hoa chiến thắng: Dân tộc Tiên Rồng đồng hướng giữ giang sơn/ Trời triều Nguyễn hoá thành Việt Nam khởi tổ.../ Tổ quốc xây nền trên muôn vàn giông tố/ Nội tặc, ngoại xâm, binh lửa, thiên tai/ Nghiệt ngã thay! Nhưng thời nào cũng Quân giỏi – Thần tài... Thăng Long ơi! Ngàn năm đâu dễ “Thập toàn”.../ Chín năm kháng chiến Điện Biên/ ...”Chiến dịch Hồ Chí Minh” lịch sử chói loà, ý thức dân tộc không đơn thuần như một khái niệm bất biến mà đã có sự biến đổi, mở rộng giàu sức biểu cảm hơn với hệ thống những biểu tượng, tượng đài chiến thắng, niềm tin tất thắng của một dân tộc biết hy sinh vì “đại nghĩa trí nhân”, của giây phút bừng thức lương tri dân tộc trước những thử thách mới của thời đại đã và sẽ ập đến, đầy bất ngờ và hoàn toàn không dự báo. Cũng chung tần số và hướng cảm nhận, góc độ ý thức dân tộc nơi Phạm Hữu Lý biểu hiện tương đối ấn tượng, được biểu đạt như nút thắt trong tác phẩm, tác giả đã thể hiện lại những rung động nội cảm thành sự ngân rung của tâm trạng thơ, nét nhạc hùng tráng, ngợi ca sự tích anh hùng và sự bất diệt của ý chí quyết thắng, quyết tâm dựng xây tượng đài chiến thắng, rộn vang nhịp điệu thời đại: Đây Văn Lang/ Vạn Xuân/ Đại Cồ Việt/ Việt Nam/ Tổ quốc gọi những tên vàng chói lọi/ Đây Thăng Long/ Đông Đô/ Hà Nội... /Sang sảng “Chiếu dời đô” thuở trước... /Dạt dào mái chèo Hoa Lư về Đại La.
            Ý nghĩa của đài hoa chiến thắng, không nằm ngoài ý thức truyền thống phát triển tri thức lịch sử, xã hội của một dân tộc, biểu hiện trước hết ở tính tự lập, tự cường, biết ta, biết bạn, biết thù, đó phải được coi là những điều kiện xác quyết cho sự trọn vẹn chiến thắng chính nghĩa ở một dân tộc có tinh thần bất khuất bốn ngàn năm. Từ biểu tượng Người anh hùng áo vải Quang Trung Nguyễn Huệ đại diện cho chủ nghĩa anh hùng dân tộc - đã để lại cho đời bài học chiến thắng đầy nhân bản mà sâu sắc tột cùng, Chế Lan Viên đã phác thảo qua vần thơ chiến đấu đầy sắc bén và nhậy cảm thời cuộc, ông đã khái quát trọn vẹn cả một giai đoạn phát triển của cuộc chiến với yếu tố tiêu biểu, thể hiện mối quan hệ phức tạp giữa dân tộc Việt Nam với nước bạn láng giềng giai đoạn ấy, khi mà quyền lợi dân tộc đang dứng trước muôn vàn khó khăn để chuẩn bị cho đại cuộc thống nhất đất nước, với duy nhất một sự lựa chọn: Nguyễn Huệ bảo: “Ta đánh trận này lớn lắm/ Ai không đánh ở lại cùng ta xem đánh” /Lịch sử ngày xưa giống tựa trang này/ Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi cầm hoả hổ/ Thì ngày nay ta cưỡi những phi đội oai hùng/ Giết giặc giữa trời mây – Bình luận thời sự hè 72 của Chế Lan Viên . Ý thức lịch sử, xã hội đã được phát triển cao thêm với khái niệm hoàn toàn mới, sự toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc không chỉ gói tròn trong phạm trù từng tấc đất biên giới, từng vùng biển quê hương, mà còn bao hàm cả vùng trời bao la nữa. Chế Lan Viên đã đi từ sự tự nhận thức bằng ý thức dân tộc của mình để gián tiếp đề cập tới phạm trù của ý thức phát triển tri thức lịch sử xã hội hết sức khéo léo, như một sự tự khẳng định, một phản tỉnh cần thiết với những lực lượng đối nghịch đang nhăm nhe lợi dụng thời cơ đục nước thả câu trước vận mệnh dân tộc Việt Nam. Biểu hiện khía cạnh này ở tác phẩm thơ của Phạm Hữu Lý lại có chiều đằm thắm, nhân ái hơn bởi quy định góc nhìn thời cuộc, thế sự của thời đại với ánh quan chiêm đầy tự tin, có phần viên mãn, tròn trịa về một không gian - khoảng trời lịch sử và xã hội của những anh hùng, đẫm tính nhân văn: Ngàn năm đánh giặc ngâm thơ/ Tiếng gươm khua khúc dân ca ru hời/ .../Việt Nam rồng vút cánh bay/ Hoà cùng biển lớn vui vầy bốn phương/ Ta xây cuộc sống thiên đường/ Trên nền trí tuệ phi thường nhân dân/... Đẩy mạnh thiên tính nghệ thuật trong kết cấu nội cảm nhân vật biểu trưng, Nguyễn Sĩ Đại như muốn tìm điểm đến tri thức xã hội từ tri thức lịch sử, mà cũng có thể ông như đang phân vân muốn tìm đến điểm giao thoa giữa hai luồng tri thức ấy: Loa Thành dựng móng rùa nên cung nỏ.../ Anh lớn lên lúa ngút mắt Hà Tiên... /Đường Lũng Cú chưa lên cùng đất nước... /Em mười lăm, áo đã tím hoa cà... / Nên bây giờ anh chẳng thể đi đâu... / Anh bây giờ nước mắt bốn ngàn năm/ Tiếng hát bốn ngàn năm/ Thu xanh thành vĩnh viễn/. Và Nguyễn Sĩ Đại cũng đã tìm được cho mình cái điểm lý tưởng ấy, nó là kết lắng của quá trình vận động tri thức cả dân tộc đang khao khát hướng về một ngày mai, về một điểm đến từ tương lai, từ đỉnh cao tiến bộ loài người đang hướng tới bằng sức mạnh của sự tự thức tỉnh tri thức phát triển lịch sử xã hội mang hơi hướm của đại dân tộc: Cái mỏng mảnh đời anh dù vụt biến /Xin được hoá màu hoa tha thiết ở trên đời/ Hoá cỏ lành đất Việt mãi xanh tươi. Phát triển và nâng cao tầm nhận thức về ý thức phát triển tri thức lịch sử xã hội ấy cũng để dấu ấn khá rõ nét trong tư duy sáng tạo của Bùi Bá Tuân, dường như ông đã nhận diện được quy luật tương thích của nó, cũng như Phạm Hữu Lý và Nguyễn Sĩ Đại, Bùi Bá Tuân đã nắm bắt và tìm đến cốt lõi của sự tự vận động của các biểu tượng tiêu biểu: Tam đảo, Ba vì hổ phục, rồng vươn/ Tứ quý, tứ linh soi bóng Hồ Gươm/ Phong thuỷ bát phương oai hùng kỳ vĩ.  Nhưng điểm đến của Bùi Bá Tuân lại thuộc về thế giới của sự tự nhận thức, của sự tự vận động tâm linh vào niềm tin tuyệt đối, lòng tin vào tính nhân, tính thiện để làm nên chân giá trị ý thức phát triển lịch sử xã hội: Thấu hiểu muôn dân trầm trong bể khổ/ Trời đất Việt Nam “hoá độ bậc thánh hiền”.../ Thế trận lòng dân thiên thần huyền bí/ Đại nghĩa trí nhân gốc của sâu bền. Niềm tin ấy được Bùi Bá Tuân gửi gắm vào hình ảnh bậc đại chí, đại thánh của dân tộc Việt Nam – Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và tư tưởng của Người: Chín năm kháng chiến lẫy lừng điện biên/ Vang lời Bác Hồ tuyên ngôn bất hủ/ Hào khí ngàn năm Thăng Long trầm tích tụ/ Chiến dịch Hồ chí Minh lịch sử chói loà/ Tổ quốc Việt Nam ngàn vạn bài ca/ Dân tộc anh hùng – điệp trùng cung nhạc.
            Sự chiến thắng của chính nghĩa trước phi nghĩa là quy luật tất yếu của lịch sử phát triển của một dân tộc biết đoàn kết, hướng tới mục đích sống tốt đẹp, mục đích phát triển xã hội công bằng, văn minh, dân chủ và trên hết là tinh thần bình đẳng, bác ái. Sinh thời Hồ Chủ Tịch thường căn dặn: Dân ta phải biết sử ta/ Cho tường gốc tích giống nhà Việt Nam mà triết lý tận cùng là tấm lòng và ý thức khao khát hướng về cội nguồn dân tộc. Trong ba tác phẩm trên, hệ ý thức ấy trở thành kim chỉ nam cho hướng phát triển các nguồn cảm xúc sáng tạo của từng tác giả mà biểu hiện cao nhất là tư tưởng chủ đạo xây dựng nên hồn cốt, diện mạo, cấu trúc, nội dung nghệ thuật của từng tác phẩm thơ. Tính nhất quán trong tư tưởng mỗi tác phẩm không có nghĩa là sự pha trộn các sắc thái sáng tạo hoà lẫn vào nhau, đồng bộ hoá các tác phẩm mà trái lại, qua bản lĩnh sáng tạo của từng tác giả, nó được phản chiếu lại theo mỗi cung bậc cảm thức khác nhau, tạo nên hiệu ứng nghệ thuật duy cảm, nhưng mang dáng dấp của trường âm thanh, đẫm tính nhạc, ghi lại trung thực nhất sự va đập giữa các làn sóng xúc cảm toả ra từ trái tim mỗi tác giả. Vẫn là hành trình tìm về truyền thống lịch sử nhưng ở Bùi Bá Tuân là sự lý giải quá trình hình thành và phát triển của cảm xúc sáng tạo với niềm tin tưởng tuyệt đối vào bản chất loài người, là sự trỗi dậy của một tâm hồn khao khát hướng tới triết luận cuộc sống trí nhân đại nghĩa, biểu hiện căn bản của tính thiện. Nhưng ở Nguyễn Sĩ Đại lại là sự tìm về bản thể con người, là hành trình tìm lại bản ngã, bằng giải pháp đặt cái tiểu ngã vào  trong cái đại ngã để từ đó khẳng định vai trò bản ngã của mỗi con người như một hiện tồn trong lịch sử luôn song hành cùng người bạn lớn là thiên nhiên cỏ cây. Vẫn là hành trình ấy nhưng Phạm Hữu Lý lại đi sâu tìm tòi và nhấn mạnh vào vai trò quan trọng từ nguồn tri thức sống trong cội nguồn lịch sử dân tộc, dường như tác giả đang khao khát vươn tới sự bất tận của nguồn tri thức dân tộc qua biểu tượng một mùa xuân vĩnh cửu của Tổ quốc mến yêu.
            Sự tác động chi phối từ cảm hứng thời đại đến cảm quan thẩm mĩ trong quá trình sáng tạo tác phẩm của mỗi tác giả đều có thể tạo ra những hiệu ứng nghệ thuật khác nhau nhưng hiệu quả đạt tới giá trị thẩm mĩ cho mỗi tác phẩm nghệ thuật lại mang tính tương đồng, tương thích, phù hợp với giá trị mĩ học của thời đại. Tuy nhiên tính phát dẫn, truyền tiếp thông tin từ chủ thể sáng tạo đến đối tượng tiếp nhận phải thông qua một trung gian / đối tượng văn bản/ nên luôn luôn tồn tại sự biến đổi, tuỳ thuộc vào góc độ nhìn nhận và phông văn hoá của đối tượng cảm nhận, khi tiếp thu tác phẩm. Nhưng rõ ràng qua những tác phẩm và tác giả ở trên, thì yếu tố cảm hứng thời đại có thể khẳng định luôn đóng vai trò quyết định để làm lên giá trị /dấu ấn/ thẩm mĩ cho từng văn bản thơ, và sự ảnh hưởng chi phối của nó đến cảm thức sáng tạo của tác giả /chủ thể sáng tạo/ trong suốt quá trình tạo tác tác phẩm là rất quan trọng? Và cũng nhờ luồng cảm hứng sáng tạo này mà tác phẩm nghệ thuật chân chính có thêm sức mạnh để tồn tại mãi mãi cùng thời gian – yếu tố cuối cùng và duy nhất giúp tác phẩm có sự sống trường tồn trong lòng độc giả.
           

Trò chơi không gian trong nghệ thuật thơ HVL

Trò chơi không gian trong nghệ thuật thơ HVL

Không gian và thời gian - hai yếu tố thiết yếu cấu thành nên ý niệm về tồn tại và khái niệm về vũ trụ. Trong nghệ thuật, hai yếu tố này luôn đóng vai trò khơi gợi, đánh thức, dẫn dắt luồng cảm thức sáng tạo từ tâm hồn người nghệ sĩ. Và nó, không/ chưa bao giờ tách rời khỏi ý thức sáng tạo góp phần xây dựng nên /mảng/ không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong từng tác phẩm nghệ thuật /tập thơ/. Tuỳ thuộc vào mỗi góc độ, cảm quan riêng có của từng chủ thể sáng tạo mà sự xuất hiện của không/ thời gian nghệ thuật mang những sắc thái riêng, ghi đậm dấu ấn /ấn tượng/ của chủ thể, sâu sắc hay hời hợt, nông thô hay đằm thắm, lấp lánh những tia sáng hay nhoè nhoẹt những sắc màu, cùng tần suất xuất hiện liên tục hay cách quãng...  Và sự biến chuyển /về bản chất/ của nó (từ phạm trù không gian và thời gian vật lý sang không gian và thời gian nghệ thuật) cũng là lằn ranh giới giúp đối tượng cảm nhận /người đọc/ nhận biết được đôi chút xu hướng nghệ thuật và giá trị của từng tác phẩm, tác giả.  Bài viết này xin đề cập đến một khía cạnh nhỏ trong thơ Hàn Vũ Linh - khía cạnh không gian vật lý và không gian nghệ thuật.
Tập thơ Khoảng trời tặng em của Hàn Vũ Linh, Nhà xuất bản Hội nhà văn ấn hành năm 2011, khái niệm không gian dường như bị bẻ gãy vụn bởi những tính đa chiều của các mạch xúc cảm, cái nhìn trực diện phân chia thành những tiểu vũ trụ nhỏ bé, những vùng không gian của ý thức bị phân rã thành những hạt nhỏ, lấp lánh ánh xạ lại cái tôi nội cảm chan chứa tâm trạng, hoài niệm, tiếc nuối, để rồi những tiểu vũ trụ, tiểu không gian đó hợp nhất trong một không gian chung nhưng không đồng nhất, không thuần chất - không gian của tình yêu - không gian của trái tim khao khát mãnh liệt được tặng trao, phân phát thứ quà đặc biệt của thượng đế ban cho riêng loài người - sự cô đơn và cảm giác hạnh phúc được yêu. Ở Khoảng trời tặng em, sự dịch chuyển sắc màu và những biến chuyển của sự vận động không ngừng của không gian và cảm thức của Hàn Vũ Linh về nó, đã trở thành một trò chơi trí tuệ, một trò chơi của cảm giác về hình tượng ngôn ngữ và hệ thống biểu tượng thơ, tất cả đã đi vào dấu ấn của tri giác, mang tính tiêu biểu như các bài Khúc hát dưới mưa, Trăng, Em đợi mùa thu, Mưa hoàng hôn, Biển không em, Em hãy về, Cơn bão cuối cùng, Đêm thuỷ tinh, Thế giới song song... ở những bài thơ này, trò chơi không gian (không gian vật lý và không gian nghệ thuật) khởi hành với quy luật của trò ru bic khởi nguyên từ bố cục các mảng hình khối, nơi đó (tập thơ Khoảng trời tặng em) ngôn ngữ đóng vai trò như những thanh đệm, trượt; tri giác là lực đẩy tương tác vào khối khối những góc cạnh (không gian vật lý); và linh giác, yếu tố quan trọng nhất của thi nhân, tựa như những lực phản lại chuyển động của tri giác, nhưng không mang tính triệt tiêu cơ học đơn thuần, nó có tác dụng định hướng và kết hợp cùng những xúc cảm sáng tạo đẩy các khối hình tượng, hình ảnh thơ định hướng các chiều không gian /không gian nghệ thuật/ về lý tưởng chung /các mặt đồng màu/ của tính chân lý, của sự thanh lọc tâm hồn, và khả năng cảm nhận cái đẹp đó là quỹ đạo của tính hướng nội trong toàn bộ tác phẩm: Màn đêm trượt vội qua cánh cửa mưa ướt/ Bỗng hoá mùa đông chật chội góc đường... Con đường đêm dài, bánh xe thẳng – cong/ Lăn vật vã trong những điều vụn vặt - Thế giới song song. Sự dịch chuyển của tư duy hình tượng ngôn ngữ, khái niệm (màn đêm, cánh cửa, mùa đông, góc đường, con đường, thẳng, cong) gợi về tư duy không gian thuần tuý cơ học/ sang tư duy không gian nghệ thuật đơn thuần (màn đêm trượt, cánh cửa mưa, mùa đông chật trội, lăn trong...), và chỉ thực sự trở thành chân lý nghệ thuật thơ khi (màn đêm trượt vội, bỗng hoá mùa đông, bánh xe thẳng, cong, lăn vội vã), chính luồng tri thức nghệ thuật đã biến mảng không gian tĩnh (thực) thành một không gian sống động, linh hoạt, giàu sức biểu cảm (ảo), và nhờ linh giác của chủ thể sáng tạo, đã trở thành một không gian đầy tính nghệ thuật. Ở không gian của chân lý nghệ thuật thơ ấy, người đọc có thể tìm ra, cảm thấy, hoặc linh cảm thấy, vẫn những hình ảnh thơ đó, nhưng chúng đã mang những giá trị biểu đạt khác nhau, lượng thông tin hàm chứa nhờ đó cũng tăng thêm, những hình ảnh thơ được tái hiện và có sức sống mới vượt qua phạm vi câu chữ, ở phạm vi bài thơ Thế giới song song, hình ảnh bánh xe thẳng - cong lăn vật vã đã thấm đẫm tâm trạng và mang tính dự báo cho những số phận - Người long đong, lận đận, và đầy trắc ẩn trong trường kiếm tìm đến tận chân hạnh phúc.
Vẫn mô típ phát triển, biến đổi của các mảng không gian, nhưng ở bài thơ Đêm thuỷ tinh là sự phân rã và ánh xạ lại những mảnh vụn của triết lý nghiệm sinh thể hiện sự dịch chuyển từ không gian cơ học sang không gian nghệ thuật thơ rất nhuần nhuyễn, có sự lắng đọng, kết tinh của cảm thức vào biểu tượng thơ. Không gian bị nén chặt vào mỗi chiều vận động của tâm thức để rồi tự vỡ vụn dưới sức ép cảm xúc, không gian trong bài thơ mang tính thuần cảm: Đêm thuỷ tinh bóp vụn ánh trăng tan/ Gương mặt méo dưới đáy sông khắc khoải... Mảnh gương xám vỡ đều và tuần tự/ Chôn sau lưng những khoảng lặng mơ hồ... Trải những âm thanh gầy guộc sau vòng tay tan vỡ/ Để con đường trôi trên đêm lạnh thuỷ tinh - Đêm thuỷ tinh. Chỉ là không gian của một cuộc tình, của sự trải nghiệm giữa anh và em, và sự thể nghiệm của cá thể anh với nỗi buồn miên viễn chung của kiếp người, đang trăn trở trước mỗi rung động của chính trái tim, nhưng đóng vai trò quyết định, dẫn hướng cho nghệ thuật thơ vượt qua lằn ranh giới tưởng như mong manh nhưng lại khó vượt qua giữa không gian cơ học và không gian nghệ thuật vẫn là yếu tố tri giác và linh giác của thi nhân, sự dịch chuyển không gian từ: (Đêm, ánh trăng tan/ đáy sông... Mảnh gương xám / khoảng lặng... vòng tay/ con đường, đêm lạnh) đến: (Đêm thuỷ tinh, ánh trăng tan/ dưới đáy sông khắc khoải... Mảnh gương xám vỡ/ Chôn, khoảng lặng... vòng tay tan vỡ/ con đường trôi, đêm lạnh) đã xuất hiện một vòng lặp nghệ thuật, cấp độ cảm xúc phát triển theo chiều không gian hình xoắn ốc, tạo cảm giác nới rộng, rộng mãi biên độ không gian nghệ thuật thơ mở dường như vô hạn. Trước cái vô hạn đó đã thúc đẩy ý thức ta tìm về bản ngã như một phương tiện duy nhất để hiểu được và thoát khỏi sự cô đơn - nỗi sợ hãi bản năng đang vây bủa. Thoát khỏi sự sợ hãi hay chiến thắng sự sợ hãi bằng sự tự thanh lọc tâm hồn chỉ khi ta đã hiểu được chính mình. Và trò chơi không gian sẽ kết thúc trong tác dụng khơi gợi từ sâu thẳm những ký ức, những hoài niệm, cho cái thiện định hình phôi thai từ chính sự rung động giữa độc giả /đối tượng cảm nhận/ và đối tượng văn bản /bài thơ Đêm thuỷ tinh.
Lằn ranh giới thực, ảo và những khái niệm mặc định đôi khi cũng bị trò chơi không gian lấn lướt, bẻ cong, vặn xoắn biến dạng, xuất hiện sự phối sắc giữa các mảng màu, các sắc thái cảm xúc không thuần nhất và đầy mâu thuẫn tâm trạng, thành những bi kịch của khát vọng khiến người nghệ sĩ /đối tượng chủ động bày ra trò chơi và là chủ thể sáng tạo/ cũng rơi vào trạng thái bị chi phối về cảm xúc bởi sự xuất hiện bất ngờ và tần suất dày đặc của những ánh, tia linh giác lấp loá, ẩn sau tính chất phi lý của liên tiếp những sự việc: Biển dài hơn bờ cát/ Trắng xoá lòng những con thuyền đi lạc/ Trôi mênh mông thu rụng sóng hoàng hôn... Thời gian ngủ vùi chôn ngọn nến cô đơn/ Trong leo lét đêm chảy tan tiếng gió... / Đếm không gian yên lặng đến vô hình.../ Hoang vắng rồi từng vệt xoáy điêu linh/ Lay vạt cỏ in hình người trong cát trắng.../ Biển không em... vô tận đến bao giờ - Biển không em. Dùng hệ quy chiếu này để so sánh một hệ quy chiếu khác và thủ pháp nói ngược, nhằm phản tỉnh những hiện tượng thực tại đang tuần tự diễn ra:  Biển dài hơn bờ cát/ Trắng xoá lòng / Trôi mênh mông; thu rụng; sóng hoàng hôn... Thời gian ngủ vùi chôn ngọn nến cô đơn/ Trong leo lét đêm chảy tan tiếng gió... / Đếm không gian, vô hình.../ Hoang vắng, vệt xoáy điêu linh/ vạt cỏ in hình người trong cát trắng.../ Biển không em... vô tận đến... với nguyên lý chồng chất sự việc, sự kiện khiến cảm thức đối tượng tiếp nhận liên tục phải cập nhật với những thông tin mới, tạo hiệu ứng thẩm mĩ nhất định trong việc tiếp nhận và xử lý các thông tin cần tiếp nhận, bị rũ rối, từ đó không gian (thời gian) thực bị đảo lộn và hiệu quả không ngờ của nó chính là sự hoài nghi bản chất của sự việc đang diễn ra trong đối tượng tiếp nhận là sự việc có thể có thật và có thể không có thật. Và sự hoài nghi đó có thể coi là nền tảng, đồng thời cũng là khởi thuỷ của sự ám ảnh nghệ thuật - mục đích cuối cùng mà tác giả muốn gửi gắm vào tác phẩm của mình - như một ấn tượng để xác định giá trị thẩm mĩ nhất định cho tác phẩm.
Ba bài thơ tiêu biểu cho ba khái niệm cơ bản về tính chân, thiện, mĩ (với cảm quan người viết bài viết này), khả dĩ có thể xây dựng nên một không gian thơ Hàn Vũ Linh. Ở đó trò chơi không gian là vấn đề chính mà tác giả bài viết này quan tâm đề cập, luận giải, hoàn toàn không nằm ngoài giá trị nhân bản, nhân văn có trong toàn tập thơ Khoảng trời tặng em. Người viết nêu ra vấn đề chỉ như một lát cắt mỏng trên lớp vỏ nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ biểu đạt qua từng bài thơ, không mong đi sâu hay lạm bàn về những vấn đề như thi pháp, cấu trúc, nội dung tư tưởng của toàn tập thơ. Thiết nghĩ với triết lý sáng tạo của Hàn Vũ Linh đã bộc lộ ở phần mở đầu cuốn sách, cũng đủ giúp chúng ta, những độc giả yêu quý và trân trọng văn chương hiểu và thêm yêu quý một tâm hồn thơ đầy giông bão Hàn Vũ Linh.

TẠ THU HÀ
Biên tập viên NXB LAO ĐỘNG.

ÁM ẢNH ÂM THANH TRONG BÀI THƠ “TIẾNG SUỐI”



ÁM ẢNH ÂM THANH TRONG BÀI THƠ “TIẾNG SUỐI”
CỦA PHẠM CÔNG HỘI

Tiếng suối

Suối ơi có biết chăng là
Ra đi để lại mình ta lại rừng
Bóng chiều đã đổ trên lưng
Con chim trói cột
   từng
        nhịp
            thưa
Suối ơi suối tự bao giờ
Từ đâu suối lại, ta chưa hiểu mình
Ta chìm trong đáy nước xanh
Suối ôm ta giữa mối tình nước mây
Xôn xao một chút ban ngày
Đã nghe ánh mắt dâng đầy bóng đêm
Ở đây rừng vẫn hơi men
Suối đi liệu có một phen trở về.

Khi đọc bài thơ Tiếng suối của tác giả Phạm Công Hội đăng trong tuyển tập thơ Còn mãi với thời gian nhân dịp kỷ niệm 65 năm Ngày thành lập Nhà xuất bản Lao Động (trang 249), người đọc không khỏi băn khoăn, thắc mắc, thậm chí bị ám ảnh bởi tiêu đề bài thơ khi đặt nó trong bối cảnh nhận thức chung, toàn văn. Hình ảnh con suối trong bài, có thể coi là chủ thể trữ tình thứ hai (sau chủ thể trữ tình thứ nhất là cái tôi của tác giả), thậm chí có thể coi “nó” như một nhân vật thơ chính được hiện hữu sống động qua hàng loạt thủ pháp nhân cách hoá, và lạ hoá sự vật, sự việc bằng sự xuất hiện của nhiều lớp ngôn ngữ giàu tính gợi mở và hướng tư duy đa chiều trong cấu trúc toàn bài. Sự ám ảnh thơ ở đây là chính là yếu tố “lạ”, khi tác giả tuyệt nhiên không dung tới một chi tiết thơ nào đặc tả /hay mô tả/ thanh âm của “nó” (tiếng suối) ngoài sự băn khoăn hoài cảm, thậm chí trở trăn day dứt, giằng xé trong tâm trạng truy tìm mã giải (code) cho sự khởi nguồn con suối /chủ thể suối/.
Thông thường trong quá trình sáng tạo tác phẩm, việc chọn đặt tít bài cũng đồng thời diễn ra cùng công việc chuẩn bị “bếp núc văn chương” để chủ thể sáng tạo sửa soạn đón nhận đứa con tinh thần ra đời, có nghĩa thao tác chọn đặt tít bài có thể sẽ xuất hiện trước thao tác tìm tứ, chọn ý, cũng có thể là sau khi ý, tứ hoặc nội dung bài thơ đã hoàn thành trọn vẹn, như một phần của một chỉnh thể nghệ thuật hiện hữu. Và tất nhiên, tít bài sẽ phản ánh một phần hay toàn bộ nội dung bài thơ. Theo lô gíc diễn giải, có lẽ tác giả Phạm Công Hội đã sai lầm hoặc thiếu nhất quán trong quá trình chọn tiêu đề cho tác phẩm? Để tít bài thơ hoàn toàn đi lệch với nội dung biểu đạt /xét theo mặt ngôn ngữ sử dụng trong ngữ cảnh thơ/... Những băn khoăn đó theo tôi khá lâu, có lẽ cũng nửa năm trời trong thâm tâm luôn đeo đuổi mong tìm hiểu cho tường tận cái âm thanh“Tiếng suối” kia.
Theo thời gian mọi sự cũng dần phai nhạt, dù ta có kiên trì đến mấy! Có lẽ rất đúng với nội dung hai câu thơ mở đầu bài thơ của Phạm Công Hội: Suối ơi có biết chăng là/ Ra đi để lại mình ta lại rừng.
Nhưng lại có lẽ, tôi xin nhấn mạnh, mọi sự dù ta cố tình quên lãng hay bản thân nó vô tình bị “chìm” đắm trong mớ hỗn mang của ký ức ta, có thể nó, sẽ chưa bao giờ chịu khuất lấp hẳn, bởi chỉ cần một điều kiện nhất định nào đó phù hợp và đủ mạnh, tác động đến cái cơ chế vi diệu đang âm thầm vận hành trong tâm hồn, cũng đủ khơi gợi lại từ tiềm thức xa xăm những vấn đề tưởng như đã mãi mãi bị xoá nhoà trong bộ nhớ kia. Cơ chế vi diệu ấy đã đến với tôi trong một lần tình cờ, khi đã quá ngán ngẩm những cuộc rong chơi nhàm chán nơi đô hội, lặng lẽ theo đám bạn ngao du vào cánh rừng thông xanh ngút ngát của vùng đất địa linh nhân kiệt thăm núi Yên Tử. Như một mặc định trên suốt cuộc hành trình đầy mệt nhọc, qua chùa Cầm Thực, tới suối Giải Oan dưới chân núi Trúc, đang mê mải ngắm nhìn từng chiếc lá tùng úa vàng rơi trong gió, bỗng giật mình khi nghe tiếng của chú chim bắt cô trói cột trong trẻo ngân vang như muốn khẳng định cho lũ người ham chơi là chúng tôi hãy dè chừng chớ xâm phạm vào lãnh địa sinh sống của chúng. Tiếng chim bắt cô trói cột vừa vang lên bên này, phía bên kia sườn núi lại văng vẳng lời đáp lại, chỉ chưa đầy nửa phút cánh rừng thiêng bỗng tràn ngập tiếng chim nghe như van lơn, năn nỉ giữ bước đám người đang băn khoăn dợm chân bước qua suối vắng. Bỗng đâu bên tai tôi chợt ngân nga âm điệu của câu thơ: Bóng chiều đã đổ trên lưng/ Tiếng chim trói cột gõ từng nhịp thưa/ Suối ơi suối tự bao giờ/ Từ đâu suối lại ta chưa hiểu mình. Lạ nhỉ, có suối ắt có mạch, có nguồn, để từ đó thành sông, thành biển. Cái triết lý “Không ai tắm hai lần trên cùng một dòng sông” của nhà hiền triết xưa, hình như cũng lý giúp tôi lý giải được phần nào cái khát vọng tìm đến tận chân bản chất suối nơi tác giả Phạm Công Hội. Rõ ràng vẫn là tiếng chim bắt cô trói cột trong trẻo đang liên tiếp bủa vây đám người chúng tôi giữa rừng chiều vắng tựa như đang có muôn vàn mắt lưới thanh âm giăng mắc kín không gian, vậy mà trong thơ Phạm Công Hội, tiếng chim đã được làm lạ hoá khiến tâm hồn người đọc có cảm giác rã rời vì buồn tẻ bởi cái nhịp điệu được gõ lên trong không gian hay trong tâm hồn nhà thơ khi ấy rõ ràng lại rất thưa, và tôi đã có thể minh chứng qua cấu trúc của câu thơ đang đều đều bỗng như bị rời ra và rõ ràng chậm hẳn lại: Bóng chiều/ đã đổ/ trên lưng/ Tiếng chim/ trói cột/ gõ/ từng/ nhịp/ thưa tiết tấu nhịp điệu rõ ràng: 2/ 2/ 2/ 2/ 2/ 1/ 1/ 1/ 1, để rồi thoắt chuyển dập dồn như hơi thở dài, gấp gáp đầy tâm trạng, thậm chí bất an vì háo hức mong đợi, vì nôn nóng chờ đợi một tia sáng bất ngờ có thể sẽ xuất hiện, ùa tới rọi chiếu, soi sáng cơn khát tâm trạng: Suối ơi suối/ tự bao giờ/ Từ đâu suối lại/ ta chưa hiểu mình. Ở hai câu này, nhịp điệu thoắt biến đổi từ: 3/3/4/4, đã xuất hiện biến thể trong cấu trúc câu lục.
Sự linh hoạt khi sử dụng ngôn ngữ thơ và hình ảnh thơ cũng được Phạm Công Hội triệt để tận dụng ở câu bát, với ngữ cảnh thơ như vậy, rõ ràng sự đa nghĩa của ngôn từ đã được khai thác tối ưu và phát huy hết khả năng biểu đạt của nó qua sự kiện xuất hiện đại từ nhân xưng “mình” vị trí cuối câu, cuối nhịp. Phạm vi ngữ cảnh hai câu lục bát này, từ “mình” vừa có thể hiểu là đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất, giúp ý thơ đong đầy tâm trạng và thuần nội cảm. Ở vai trò ngôi thứ hai, câu thơ toả sáng khi hình tượng suối đã được đặt vào vị trí của nhân vật trữ tình bằng thủ pháp nhân cách hoá /mình = suối/, đó cũng là nét tinh tế riêng có của người sáng tạo góp phần đưa bài thơ chạm ngưỡng nghệ thuật, tuy thế vẫn chưa thể coi đó là một chỉnh thể hoàn chỉnh, chỉ là tương đối trong duy nhất một ngữ cảnh.
Khi mọi thứ đều chỉ là tương đối thì chân lý có thể bị hoài nghi về bản chất bất biến và vĩnh cửu, việc tìm đến với dòng suối tri thức, với tận cùng tâm trạng con người, có thể sẽ là cứu cánh. Lĩnh vực âm nhạc, cố nhạc sĩ tài danh Trịnh Công Sơn đã dùng nốt nhạc của tâm hồn để tấu lên tâm trạng một con người, một tiểu vũ trụ trong đại vũ trụ, con người sinh ra từ cát bụi, lại trở về với cát bụi như một chân lý hiển nhiên của cuộc sống, của quy luật sống. Địa hạt văn chương cũng in dấu chân biết bao thế hệ người làm thơ từng nuôi dưỡng, khao khát tìm ra một phần chân lý cuộc sống ấy, thậm chí ở đây, giữa đám người đang phiêu du hướng đỉnh Yên Tử là chúng tôi cũng vậy, chạy trốn chốn xô bồ náo nhiệt đầy bon chen đến nghẹt thở, chạy trốn hàng núi công việc nhàm chán mà ngày nào cũng diễn ra giống ngày nào đến nơi mây nước chạm nhau này chẳng qua cũng chỉ mong vớt vát lại cho mình chút ít bản ngã đang mỗi ngày thêm tha hoá.
Một đám đông lố nhố hội tụ đủ cung bậc của cảm xúc viên mãn và ngời hạnh phúc, đang roi rói cười dưới đáy suối Giải Oan, chẳng cần nhìn kỹ, tôi dám đoán chắc có tới chín mươi tám phần trăm là nguỵ tạo theo thói quen của nếp sống hàng ngày, bởi tuy chân bước tới phật môn nhưng tâm dạ chúng tôi còn đang gửi lại các quán đặc sản thịt thú rừng rải kín hai bên đường tới tận cổng chùa. Lại vẫn tiếng chim bắt cô trói cột kiên nhẫn vang lên bên tai nhắc tôi nhớ về Tiếng suối. Rõ ràng tiếng chim giờ đây không còn rổn rảng như trước, đang thấp thoáng vọng lên từ đáy suối chứ hoàn toàn không phải từ bốn phía không gian ập lại. Những câu thơ lại vang lên: Ta chìm trong đáy nước xanh/ Suối ôm ta giữa mối tình nước mây/ Xôn xao một chút ban ngày/ Đã nghe ánh mắt dâng đầy bóng đêm. Cái sự chìm trong đáy nước và sự nổi, dâng đầy bóng đêm trong ánh mắt là mâu thuẫn tâm trạng được đẩy cao đấy, có thể hiểu đó phải là tâm trạng của một trạng thái tinh thần đang cô đơn đến cùng kiệt, hình ảnh con suối ôm ta /hay bóng ta/ chỉ là ảo ảnh, hay sắp bị biến thành ảo ảnh bởi cái sự cố hữu đa cảm sẵn có trong tim tác giả trước cái hiện trạng: Xôn xao một chút ban ngày, có tính phù du gợi sự kết hợp giữa mây trời với nước suối đang trôi, tạo tiền đề cho các dữ kiện thơ đồng loạt quay lại giằng xé tâm can chủ thể, như muốn thiêu huỷ đi cái phần bản năng đang nỗ nực trỗi dậy. Chính giây phút này, giây phút vàng của sự thăng hoa sáng tạo đã làm văng ra khỏi cái quỹ đạo thường thấy của bất cứ người cầm bút nào trong hoàn cảnh này một chút ánh sáng, một chút âm thanh đẹp đến rợn người, cái ám ảnh về cội nguồn đã bị dồn vào đôi mắt đang dần nhuốm màu bóng tối Đã nghe ánh mắt dâng đầy bóng đêm, nói lên tất cả chỉ là sự tồn tại của nỗi cô đơn, tuyệt vọng bản thể người trước thiên nhiên, cũng như giới hạn của tầm hiểu biết của họ trên hành trình tự kiếm tìm khám phá bản thân. Nỗi ám ảnh cao nhất ở đây chính là sự sợ hãi đến rợn ngợp trước sự tha hoá không thể chối bỏ của bản ngã. Thì đây, vẫn dòng suối ấy đã chảy suốt hành trình với bao trắc ẩn, gập ghềnh, đến tận cùng bài thơ còn chảy: Ở đây rừng vẫn hơi men/ Suối đi liệu có một phen trở về như muốn thực chứng cho sự hoài nghi về số phận long đong của con người giữa cuộc đời đầy trắc ẩn.
Đám người du hành đổ về mỗi lúc một nhiều, cái sức quyến rũ, lôi cuốn của đám đông thật đáng sợ, du đẩy đôi chân tôi ngập chìm vào làn nước mát lạnh của Giải Oan, tiếng chim trói cột đã ngưng lại tự lúc nào, nhưng giai điệu âm thanh của nó hình như vẫn còn văng vẳng trong tôi, rã rời, buồn thê thảm. Có lẽ sức mạnh đám đông nhốn nháo đã làm lũ chim hoảng sợ thật sự, đành tạm rút khỏi lãnh địa ngàn đời của chúng, cũng như tôi đang bị cuốn đi mỗi lúc một xa khỏi dòng suối để biến tan vào màu xanh của vương quốc trúc rừng.
Rời xa hẳn con suối mới bất chợt thấy tiếc vì chưa kịp lắng nghe tiếng suối ở đây khi chảy luồn lách qua những hòn cuội sẽ có âm thanh đặc thù thế nào, cũng hệt như tâm trạng khi đọc bài thơ tiếng suối mà tôi đã dẫn dắt, lý giải ở phần đầu, trong phút giây mơ hồ nuối tiếc, lại ngộ ra một điều, nỗi ám ảnh từ tiếng suối trong bài thơ phải chăng là những thanh âm không thể nghe thấy bằng thính giác hay trực giác, mà nó là tiếng nói, là thanh âm thường trực ngân vang trong linh giác mỗi chúng ta, bắt buộc mỗi chúng ta phải tận dụng tối đa năng lực thụ cảm của mình khi muốn hiểu tường tận về bản chất thế giới này, cuộc sống này. Đó chính là tiếng hát, bản nhạc suối, là thanh âm ngân lên từ cấu trúc ngôn ngữ bài thơ Tiếng suối của Phạm Công Hội.  

Những sắc thái thiên nhiên trong thơ Trần Đức Đủ

Những sắc thái thiên nhiên trong thơ Trần Đức Đủ

Nhắc đến Trần Đức Đủ, người yêu thơ văn của Bắc Giang lại nhớ đến một người có vóc dáng nhỏ nhắn nhưng tầm nhìn nhận chữ “văn” trong văn chương không hề nhỏ, và đặc biệt rất “say” thi phú, người đã dành trọn tâm huyết tuổi trẻ của mình gắn bó thuỷ chung với hành trình sáng tạo văn chương.
Trần Đức Đủ biết làm thơ từ thuở nhỏ, lại được kinh qua nhiều lớp bồi dưỡng năng khiếu sáng tác văn học, nên trên cánh đồng văn chương, con người nhỏ bé ấy như một người thợ cần mẫn lao động, cần mẫn gom nhặt tinh hoa từ thế giới tâm hồn mình dâng hiến cho đời những trang thơ đượm hơi thở của cuộc sống, và lấp lánh sắc màu tươi mới. Khi tiếp cận thơ Trần Đức Đủ, ấn tượng ban đầu rất dễ nhận thấy là nguồn cảm xúc trẻ trung luôn thường trực, hiện diện như một mặc định cho số phận người thơ, gây cho người đọc cảm giác hình như trong công việc sáng tạo, Trần Đức Đủ không chỉ đóng vai người gieo hạt chữ lên những cánh đồng ngôn ngữ và rồi chờ đợi chồi non nghệ thuật nảy mầm vươn lên từ những khoảnh khắc bất chợt, mà còn có sự chủ động tìm kiếm, chăm bón, chọn lựa những mầm tơ khoẻ mạnh để từ đó tìm ra cách chăm sóc đặc biệt bằng xúc cảm riêng có của người đủ bản lĩnh sáng tạo làm nên điều kỳ diệu cho riêng bản thân mình.
Với 2 tập thơ Mẹ ngồi têm nắng  (Nxb VHDT năm 2005) và Cánh đồng mây (Nxb VHDT năm 2010), liên tiếp ra đời trong một khoảng thời gian đủ để độ chín của cảm xúc thơ lên men, Trần Đức Đủ đã tự khẳng định bản lĩnh của mình trong đội ngũ những người cầm bút sáng tác của Bắc Giang, và cũng ý thức được trách nhiệm của các tác phẩm trước công chúng yêu thơ.  
Hai tập thơ với hai mạch chủ đạo dựng xây hình tượng người mẹ, người phụ nữ Việt Nam tiêu biểu với những đức tính và niềm tin yêu cuộc sống luôn song hành thường trực, cùng luồng ý thức khơi dậy của bản thể con người trước mọi rung động sâu sắc và biến đổi vi diệu (các trạng thái biến đổi của thiên nhiên, các trạng thái biểu hiện của mối quan hệ con người) trong cuộc sống thường nhật. Nhưng vượt trên tất cả, có sức bao hàm toàn bộ hai mạch thơ ấy lại là luồng ý thức của cảm xúc sáng tạo khởi nguyên từ tình yêu thiên nhiên đem lại. Sự lắng đọng kết tinh của cả quá trình trải nghiệm sống nơi chủ thể sáng tạo cũng nằm không nằm ngoài cái lấp lánh của sắc màu tự nhiên đến tận nguyên thuỷ của các gam màu. Sự giao hoà bản thể cùng xúc cảm tinh tế có được từ thiên nhiên vẫn là mấu chốt biểu đạt cho mạch cảm hứng nghệ thuật và khơi dậy những tiềm năng thi hứng còn ẩn sâu sau lớp vỏ ngữ ngôn.
Trong tập thơ Cánh đồng mây, độ giao hoà giữa các gam màu thiên nhiên đã đạt tới đỉnh cao xúc cảm của chủ thể sáng tạo, hay nói cách khác đã tới độ chín của khả năng sử dụng và tư duy ngôn ngữ trong từng bài thơ, hãy thử chiêm nghiệm:   
Tháng xanh liềm hái trăng treo
Ngày vàng nở ngọn mùa theo chân người
Hạt mầm tí tách reo cười
Xôn xao hương cốm đất trời vào thu. Nghe tiếng chim gù
Sự chuyển hoá tinh tế từ cảm hứng về con người trước thiên nhiên là con đường ngắn nhất dẫn đến sự khám phá thế giới giúp tác giả dễ dàng thể hiện hơn qua những cung bậc sáng láng của gam màu yêu thương:
Chỉ hơi ấm bàn tay
Và mùa xuân ở lại
Đậu trên môi con người. Mùa xuân ở lại
Hội tụ đủ các yếu tố của màu sắc thiên nhiên là hạt lúa trên đồng, Trần Đức Đủ đã nhìn thấy trong nó không chỉ đơn thuần là sắc màu của mưa, của nắng hay thuần khiết hơn nữa là lời ru hời của người mẹ ru con trong những trưa hè chan chứa nắng, bằng góc độ quan chiêm hoàn toàn mới mẻ tác giả đã mạnh dạn sử dụng thủ pháp so sánh tương đối giữa hạt thóc với câu thơ và điển hình hoá chúng như những biểu tượng:
Mỗi hạt thóc nhọc nhằn mưa nắng
Mỗi vần thơ tóc thêm phần bạc trắng
Phận hạt thóc lấm lem bùn đất
Phận câu thơ biển đời lăn lóc... Thơ và lúa
Rõ ràng sắc màu chủ đạo của bài thơ đã được chuyển hoá từ thuần tuý thiên nhiên phận hạt thóc sang một cấp độ cao hơn là sắc màu của nghệ thuật phận câu thơ. Sự cảm nhận về hạt thóc, câu thơ trong bài đều mang đậm sắc màu của sự vất vả, lăn lộn, đắng cay, thấm thía làm sao.
Cây tre gắn bó bao đời với làng quê Việt Nam, sự gắn bó thân thiết với màu xanh riêng có của sự quần tụ, thanh bình nơi thôn dã cùng đời sống con người đã được Nguyễn Duy khái quát hoá bằng hai câu thơ nổi tiếng:
Tre xanh có tự bao giờ
Tự bao giờ đã có bờ tre xanh.
Cái yên ả đến ám ảnh của luỹ tre một lần nữa được Trần Đức Đủ khai thác, nhưng không phải là gam màu truyền thống của thiên nhiên ban tặng cho luỹ tre, mà nó đã đi tới cái tận cùng của sắc màu, của sự kết tinh, hội tụ nơi bông hoa tre:
Trông lên đỉnh ngọn hoa tre nở bừng
Mới hay trước lúc đời ngừng
Tận dâng cho hết cái từng chắt chiu. Hoa tre
Cây tre đã thoát hài khỏi gam màu mặc định về nó, đã đi vào bờ cõi của hệ thống biểu tượng, nơi đó có sự hoá thân, có sự bươn trải, đau đáu của một số phận và cái sắc màu đặc trưng của bông hoa tre ấy, tuy tác giả không đặc tả, nhưng người đọc cũng có thể cảm được màu sắc của sự hy sinh, dâng hiến, và cao hơn hết chính là sắc màu tinh thần thiện nguyện đầy tính nhân văn.
Hạt muối mặn mòi là quà tặng của biển khơi ban cho loài người, chỉ bằng nét ký hoạ tác giả đã đưa ra một khung cảnh thiên nhiên sống động gam màu của sự trắc ẩn như hiển hiện trước mắt bạn đọc:
Muối ơi! Muôn hạt mặn mòi
Mà sao? Vẫn nhạt đầy vơi kiếp người. Vô đề
Giọt mồ hôi của mẹ, sự lam lũ của một kiếp người trọn đời bạn cùng ruộng nương khoai sắn, hình như mọi sinh linh dù nhỏ bé cũng biết nhớ tới công ơn ấy, cũng cảm được công lênh của mẹ mà tự hoá thân thành sự tri ân:
Hạt thóc vọc bùn non
Dảnh mạ xanh tóc mẹ
...
Bông lúa phơi lưng còng
Cháo khoai mầm sắn sượng,
...
Mồ hôi vun luống cày... Cánh đồng mây
Giọt mồ hôi của cha, là sự cô đọng các sắc màu của trời, của biển, là hành trình  chuyển hoá của sự tự nhận thức, hội tụ những gian nan nhọc nhằn và trải nghiệm cuộc sống trong quá trình lao động, nhuận sắc cho tâm hồn:
Nếu được cha xin  làm biển biếc
...
Nếu được cha xin là bầu trời
...
Chỉ có giọt mồ hôi mang hình hạt thóc
Mới làm nên vóc dáng của đời con. Giọt mồ hôi hình hạt thóc
Thơ Trần Đức Đủ gần gũi với thiên nhiên, đặc biệt ở tập thơ Cánh đồng mây là tập hợp của các hình ảnh thiên nhiên được tái tạo, hồi sinh lại qua các trạng thái biến đổi kỳ diệu của sắc màu từ cụ thể đến trừu tượng trong công tác sử dụng ngôn ngữ thơ, điều đó có được trong thơ chính là nhờ vào dấu ấn của sự quan sát tinh tế và khả năng thụ cảm riêng có cùng bản lĩnh sáng tạo của riêng mỗi tác giả. Sự thành công trong nghệ thuật thơ Cánh đồng mây là tác giả đã đưa tới bạn đọc một phương thức quan chiêm, thể nghiệm và cảm nhận mới, giúp độc giả tiếp cận và khám phá thêm nhiều biên độ của sắc màu cuộc sống vốn dĩ tồn tại quanh mỗi chúng ta, nhưng không phải ai cũng có thể nhận ra tận chân của nó. Cánh đồng mây thật sự là một bức tranh nghệ thuật về đề tài thiên nhiên vô cùng kỳ thú và linh diệu của Trần Đức Đủ.
    

GIỌT VUI THÁNH THÓT – LỆ SẦU CHỨA CHAN



GIỌT VUI THÁNH THÓT – LỆ SẦU CHỨA CHAN
đọc tập thơ Sóng nắng của Nghiêm Thị Xuân Thịnh


Tác giả Nghiêm Thị Xuân Thịnh, người con của quê hương Đất tổ Hùng Vương, Việt Trì - Phú Thọ, tham gia hoạt động văn chương với tư cách hội viên Hội VHNT tỉnh, từng gắn bó nhiều năm với công tác giảng dạy trong ngành giáo dục phổ thông, đồng thời cũng là tác giả của nhiều tập thơ được bạn đọc ghi nhận và đánh giá cao về chất lượng nghệ thuật cũng như dấu ấn sáng tạo riêng có của từng tập thơ, tiêu biểu như: Nôi hồng - NXB Văn hoá dân tộc 1995, Vườn ươm chiều vắng - 2002, Sóng Nắng – Nhà xuất bản Lao Động 2009, và đặc biệt một số bài thơ trong tập Sóng nắng đã vinh dự được dự tuyển vào tuyển tập “Còn mãi với thời gian” nhân dịp kỷ niệm 65 năm thành lập Nhà xuất bản Lao Động, 1945 - 2010.
Chất thơ trong tập Sóng nắng được đánh giá cao bởi nghệ thuật biểu hiện và phương pháp thể hiện, khai thác đề tài thơ đã làm nổi bật được tính cách của chủ thể sáng tạo, trữ tình, giàu biểu cảm và có chiều sâu của tư duy sáng tạo, đặc biệt tính hướng nội đã bao trùm phổ quát trên hầu hết các bài thơ có trong tập, ghi lại ấn tượng thẩm mỹ rất sâu sắc.
Với ba mảng đề tài chính là tình cảm vợ chồng, đôi lứa, tình cảm gia đình, mẹ con, và tình cảm cô trò cùng những hoài niệm về một thuở còn đứng trên bục giảng. Các mảng chủ đề được sắp xếp theo bố cục đóng mở, đan cài, xen kẽ tạo cảm giác nhẹ nhàng thanh thoát cho quá trình tư duy của độc giả khi tiếp cận thông tin từ văn bản thơ được dễ dàng hơn và đặc biệt với bố cục như vậy rất dễ tìm được sự đồng cảm của đối tượng tiếp nhận, mà không gây nặng nề nhàm chán cho tâm lý thụ cảm.
Là người phụ nữ gánh trên vai trọng trách xã hội và thiên chức làm vợ, làm mẹ trong điều kiện cuộc sống bình thường đã thực sự vất vả, vậy mà Nghiêm Thị Xuân Thịnh lại chọn cho nhân vật thơ trong Sóng nắng những trạng thái tâm trạng hết sức đặc biệt, và triển khai, phát triển nó theo những hoàn cảnh thật ngặt nghèo, thậm chí tận cùng thương đau, cùng cực. Nhân vật thơ của chị khi là người mẹ mất con, khi là người vợ goá bụa phải chèo chống bươn trải nuôi con một mình, có khi lại là người mẹ phải gồng lưng gánh vác công việc gia đình, gánh vác trách nhiệm xã hội thay người cha đã khuất của con để chăm sóc vỗ về an ủi giọt máu thiêng liêng của hai người. Thơ của chị dường như đã thấm đến tận cùng nỗi cực khổ của những người phụ nữ bất hạnh trước cuộc sống. Tất cả những điều đó đã khiến mạch thơ Sóng nắng dường như chan chứa nỗi buồn của kiếp nhân sinh, tuy vậy đôi lúc ta cũng có thể bắt gặp thấy ở tận đáy của nỗi buồn cùng cực, nhân vật thơ vẫn le lói niềm vui của sự lạc quan phát xuất từ tình yêu cuộc sống mãnh liệt và ý chí vươn lên không chịu đầu hàng trước số phận, dù nghiệt ngã.  
Điều này được thể hiện khá rõ ở mảng chủ đề thứ nhất, tình cảm của người vợ đối với người chồng đã chia xa của mình, qua các bài Sóng nắng, dưới đèn, với biển, giọt nước sông Lô, mưa, gương, gọi anh, mưa rơi, gặp anh, nhớ anh, anh có biết, ngỡ, tìm, gió đêm, nỗi nhớ, nén hương, nơi em đến, tình yêu người lính..v,v. Chân dung nhân vật thơ xuất hiện ở bài thơ mở đầu cho tập thơ Sóng nắng là hình ảnh người goá phụ cõng trên lưng gánh nặng thời gian và chuỗi hoài niệm sống:
Ba mươi năm anh vắng
            Em đan buồn thành nắng
...
Giọt giọt dài đêm mưa.
Nỗi buồn tuy vô hình, vô ảnh nhưng đã được dồn nén vào 5 câu thơ trong bài, được nghệ thuật hoá thành những sợi buồn, đã khắc hoạ rõ nét tâm trạng nhớ nhung, xa xót, ngậm ngùi và cái hành động “đan buồn thành nắng” đã đẩy bật được tính cánh kiên trung và nghị lực sống của nhân vật lên cao gây ấn tượng mạnh trong tâm trí độc giả về một mẫu phụ nữ tiêu biểu cho mô típ “sống là để cho”. Vẫn theo mô típ ấy, Ở dưới đèn là sự hồi tưởng quá vãng đẹp đẽ, một quãng thời gian hạnh phúc nhất trong cuộc đời người phụ nữ bất hạnh, luôn khao khát tình cảm, khắc khoải đến một tình yêu chân thành từ người bạn đời tâm đầu ý hợp, dù hiện thực đã phũ phàng xoá đi mất, chỉ duy nhất một chi tiết hình ảnh thơ trong bài đã khẳng định điều đó:
Hai ngọn đèn hai nơi
Soi tìm trong cách biệt.
Ở giọt nước sông Lô, tình cảm và tình yêu của nhân vật thơ đã được đẩy cao, nới rộng, trong hành trình phát triển tâm trạng nhân vật đã có sự biến chuyển, hoá thân vào một vùng lý tưởng của thời điểm nhân vật thơ đang sống – thời khắc chiến tranh, nhưng không vì thế mà sự chia cắt, nỗi đau mất mát giảm bớt, trái lại nó càng chan chứa, ngậm ngùi sâu đằm:
Lòng chị ào ạt sóng Bình Ca.
Sáu mươi năm anh đi xa
Thương nhớ cuốn vành khăn trắng
Chị bấm gan lam làm thầm lặng
Bình nước sông lô năm tháng thờ anh.
Đồng cảm, thấm thía, ngậm ngùi, đắng đót và xa xót trước số phận người phụ nữ sao ít vui nhiều buồn, thử tìm khắp nhân gian xem có nỗi buồn nào đằm sâu hơn nỗi buồn của sự trở trăn, mong nhớ về một thứ sẽ không bao giờ tìm lại được nữa, vĩnh viễn không tìm lại được, ngoại trừ trong giấc mơ:
Giật mình chẳng thấy anh đâu
Năm canh em chỉ gối đầu tay em
Giọt trăng sao vẫn dịu êm
Trăng ơi trăng! Cũng như em một mình...
Đau đáu trăn trở những nỗi sầu miên, nỗi đau chia cắt có bao giờ vợi nhất là nỗi đau sinh tử biệt ly đối với người phụ nữ cũng như một định mệnh luôn ám ảnh, giằng xé tâm can:
Anh!
Nén hương thoảng vào hư không
Sao khi cháy
Vẫn cong về mình.
Để rồi định mệnh ấy lại đổ trùm lên thân phận người phụ nữ mỗi khi muốn nhớ về quá vãng:
Đêm dài nước mắt tuôn rơi
Thương anh hoa cỏ lẻ loi một mình
Trách sao trời đất vô tình
Mưa ơi! Mưa ướt riêng mình em thôi...
Bất hạnh trong cuộc đời, chẳng ai muốn. Bất hạnh đổ xuống cuộc đời người đàn ông vốn dĩ can trường sinh ra để chịu đựng, để tranh đấu rồi thời gian sẽ phôi pha, nhưng với người phụ nữ không vậy, luôn thường trực về nó như một ám ảnh định mệnh. Bất hạnh nào hơn khi người chồng thân yêu đầu gối tay ấp, người bạn tri kỷ của cuộc đời mình đã vĩnh viễn đi vào lòng đất lạnh. Làm sao cầm lòng nổi khi vẫn người phụ nữ thiệt thòi ấy lại phải chịu thêm nỗi đau xé thịt, nỗi đau mất con:
Lủi thủi đêm nay về lại vườn nhà
Trăng buốt lạnh bên nấm mồ thân thuộc
Anh cùng con nằm đây ngàn thu an giấc
Khói hương bay nghi ngút quá vô tình.
Xúc động làm sao khi vẫn người mẹ ấy, người vợ ấy âm thầm khắc tính thời gian, nhưng ở đó không phải khoảng thời gian của chờ đợi sự trở về mà là chuỗi khắc khoải của sự vô vọng chia xa:
 Nắm đất nâu oan nghiệt nỡ cắt chia
Đã nắm giữ hai mươi năm có lẻ
Một núm ruột rà, một linh hồn nhỏ bé
Là xác, là hồn của mẹ xé làm đôi.
...
Thương đến thế! Mà đớn đau đến thế!
Hai mươi chín năm vẫn thảng thốt tiếng con tôi.
Thời gian có đủ sức mạnh để xoá nhoà tất cả, nhưng nỗi đau trong trái tim người goá phụ không dễ xoá nhoà, nỗi đau, nỗi buồn còn đeo đẳng ám ảnh, day dứt đến tận cuối tập thơ:
Anh đi xa trở mình trong đất lạnh
Em vẫn là em nuôi con lớn khôn
Có nén hương nào dịu được nỗi đau
Chỉ trái tim hồng ấm ủ hồn nhau.
Mảng chủ đề tình cảm vợ chồng, đôi lứa chảy dọc theo tập thơ Sóng nắng, chan chứa nỗi buồn, chan chứa tâm trạng của nhân vật thơ - người phụ nữ bất hạnh trước số phận và trước cuộc đời đầy nghiệt ngã - rất gần với triết lý quan điểm về đời của Phật đạo “Đời là bể khổ”. Nếu xét theo luồng quan điểm đó, hệ ý thức con người sẽ trở nên cam chịu, chấp nhận thực tại và thoả hiệp cùng số phận, nhưng ở mảng đề tài này trong tập thơ Sóng nắng, Nghiêm Thị Xuân Thịnh tuy vẫn giữ chung quan niệm nhìn “Đời, và khổ” nhưng ý thức nhân vật thơ thì không cam chịu, không thoả hiệp luôn trỗi dậy với sự khao khát sống, khao khát yêu thương. Tất cả đều có điểm khởi phát chung từ trái tim người phụ nữ dám chấp nhận sự bất hạnh của số phận, nỗi buồn của định mệnh, thậm chí còn sống cùng với nó, không giây phút lãng quên, sao nhãng, để rồi từ đó bằng niềm tin và nghị lực sống của mình, nhân vật thơ đã tự trỗi dậy tìm lấy những niềm vui, hiếm hoi nhưng quý giá đến vô ngần.
Với Nghiêm Thị Xuân Thịnh, niềm vui ấy chính là chân trời của nghệ thuật, là sự hoá thân trọn vẹn của xúc cảm và tài năng sáng tạo cùng nhân cách sống, hội tụ lại những giọt vui thánh thót nhỏ vào trang thơ - trang đời.
            Tập thơ Sóng nắng đã khắc hoạ chi tiết và rất thành công một dạng mẫu tự nhân vật thơ điển hình cho lớp người phụ nữ mới trong xã hội đang công nghiệp hiện đại hoá, đồng thời với mô típ phát triển và hoàn thiện tính cách nhân vật thơ là tâm trạng thơ tích cực. Nhưng với đại đa số bạn đọc, ấn tượng đầu tiên của Sóng nắng vẫn là cái tỷ lệ thức quá chênh lệch giữa niềm vui và nỗi buồn, thật đúng “Giọt vui thánh thót, lệ buồn chứa chan”.

Con đò, nút thắt nhân sinh trong thơ Nguyên Linh



Con đò, nút thắt nhân sinh trong thơ Nguyên Linh

Từ xa xưa, hình ảnh con đò đã gắn bó sâu sắc với tâm thức người dân Việt Nam, trước khi xuất hiện những “cây cầu nối những bờ vui”, thì con đò vẫn là phương tiện chính giúp con người hai bờ nối kết với nhau, từ giao thương buôn bán, trao đổi nông phẩm hàng hoá đến trao đổi giao lưu văn hoá, đồng thời nó cũng là phương tiện giúp giảm đi khoảng cách của không gian văn hoá giữa nông thôn và thành thị, giữa các miền văn hoá với nhau. Vai trò của con đò trong đời sống nhân sinh khó mà hình dung cho hết, cho thật tường tận, đủ đầy.
Xã hội ngày càng phát triển, kể từ khi xuất hiện cây cầu đầu tiên của Việt Nam cách đây dư trăm năm do ảnh hưởng của văn hoá đại Pháp (cầu sắt Long Biên do kiến trúc sư Effel thiết kế 1889), cho đến thời điểm hiện tại, những cây cầu liên tục được xây dựng, xuất hiện theo nhu cầu giao thông phát triển không ngừng của xã hội hiện đại, thì hình bóng những con đò ngày càng lùi xa vào tiềm thức dân gian, nguy cơ mai một dần có thể sẽ không còn xa xôi nữa.
Số phận những con đò một thời đã từng là biểu tượng của sự phát triển phồn vinh “Trên bến dưới thuyền”,  hình ảnh những con đò ngang, đò dọc đã từng làm nên một miền văn hoá đặc trưng sông nước, theo thời gian rồi cũng tha hoá dần, cho đến một ngày kia, khi chúng ta vừa chợp mắt, khi thức giấc đã chẳng còn tìm thấy dấu vết của nó để thực chứng nó đã từng tồn tại như một thực thể hữu hình.
Những văn nhân, thi sĩ được thiên phú bẩm sinh đã sớm tiên liệu ra điều đó, và nhờ họ mà nét văn hoá đặc trưng từ ngàn xưa sẽ không thể mất đi, cũng như những bóng đò xưa không còn tồn tại trên bến sông xưa, nhưng di ảnh của nó vĩnh viễn tồn tại trên những trang viết, để từ đó thẩm thấu sâu vào tâm thức mỗi con người Việt Nam hiện đại hôm nay như những ám ảnh đẹp của Nguyễn Bính về một Cô lái đò với lòng cảm thương sâu sắc.
Trong tuyển tập thơ Còn mãi với thời gian, Nhà xuất bản Lao Động 2011, giới thiệu tác giả Nguyên Linh với chùm thơ 5 bài, trong đó có tới 4 bài thơ tác giả gợi nhắc đến hình bóng đò xưa, xây dựng nên một không gian thơ rất đặc sắc, ấn tượng và biểu cảm thành một giọng điệu thơ riêng đáng chú ý, qua việc tác giả đã chọn lựa được những hình ảnh con đò thơ giàu trắc ẩn, đẫm tính nhân sinh và sử dụng linh hoạt như một siêu biểu tượng văn học, có nghĩa ở mỗi hoàn cảnh thơ, mỗi mô típ cấu trúc thơ khi xuất hiện đều có tác dụng đặc trưng khơi gợi thức tỉnh tiềm thức người đọc như một mặc định ngầm.
Tính nhân sinh thức tỉnh của con đò hay nỗi ám ảnh day dứt trong tâm thức con người mỗi khi nhắc về nó được Nguyên Linh sử dụng như một phương thức bộc lộ nội tâm, như một nhu cầu diễn giải, giãi bày tự nhiên ngay trong hai câu thơ mở đầu bài Sang ngang:
Tiễn anh, em tiễn sang ngang/ Con đò đêm ấy lang thang không về.
Chỉ một bước dấn thân của người sang ngang để con đò hoài niệm lang thang mãi. Người đọc dẫu biết con đò là vật vô tri vô thức nhưng khi hoá thân vào hệ thống biểu tượng thì trong tâm thức cũng đồng nghĩa với sự vô thuỷ vô chung kết gắn, neo đậu nét đẹp văn hoá thuần nông Việt Nam ngàn năm. Ở bài thơ này, tác giả chỉ mượn hình ảnh con đò để toát lên tâm trạng day dứt của hai chủ thể trữ tình hay để giãi bày cho đến tận cùng tâm trạng nhân vật nhưng chính hình ảnh con đò đã có sức sống tự thân và tác giả bằng sự tinh tế của sự cảm nhận riêng mình đã thổi thêm cho nó cái hồn nhân sinh khiến câu thơ toả sáng.
Mẫu tâm trạng ấy thường trực trong hành trình sáng tạo của Nguyên Linh như một ám ảnh nghệ thuật và định mệnh, khiến mỗi hoàn cảnh, mỗi trường hợp con đò xuất hiện đều gợi đến những rung cảm sâu xa nhất trong cõi tiềm thức người thi nhân đa cảm, đa sầu, hoài niệm càng trở lên thêm thấm thía, day dứt và sâu sắc ở bài Đợi đò với hai khung thời gian tưởng như tách biệt mà không hẳn vậy, vẫn thuần nhất trong tâm trạng: Cái đêm anh đứng đợi đò/ Đồng khuya bãi vắng con cò ăn đêm.
S tinh tế, yếu tố thiết yếu làm lên nét tài hoa cho bài thơ qua cách khai thác triệt để mâu thuẫn giữa hai khung không gian, ở không gian mở đầu bài thơ: Con sông lúc nổi lúc chìm/ Trăng khuya nghịch ngợm chốn tìm trong mây, là không gian thuần thị giác, của hình ảnh, còn khung thứ hai: Cái đêm anh đến gọi đò/ Tiếng ai văng vẳng lò mò qua sông. Với chiều sâu nội cảm là không gian thuần thính giác, thanh âm của mô phỏng gợi nhắc và liên tưởng. Chiều sâu tâm khảm và tính nhân sinh được đẩy tới nấc thang xúc cảm cao nhất và được xác lập một giá trị từ sự thống nhất của mâu thuẫn giữa hai không gian được tác giả lồng ghép khéo léo: Em nằm thức với chăn bông/ Thương ai rét giữa đêm đông vắng đò.
            Thoắt ẩn, thoắt hiện, luồng xúc cảm khi đi từ cao trào của ý thức bản thể trước thiên nhiên, khi lại lắng sâu tận cùng của suy tư, toan tính cho một điểm neo đậu giữa chênh vênh hai chiều tâm tưởng: Lưng trời diều chẳng neo dây/ Bên đò bên ấy bên đây vắng thuyền. Con đò trong bài Về quê tuy xuất hiện ở tận cuối bài thơ, nhưng lại có sức cô đọng vô song của sự tự tìm về bản ngã, ý thức phản tỉnh thực tại trước sự đổi thay nhanh chóng đến nghiệt ngã của một vùng đất quê thuần nông hay của chính những người nông dân thuần phác đã bị thay đổi bản chất người trước cơn bão táp kinh tế và ảo tưởng đô thị hoá trên vùng đất đã dưỡng nuôi mình khôn lớn bằng những hạt thóc, củ khoai chắt chiu từ nguồn đất mẹ: Về quê tìm chẳng thấy chiều/ Mái tranh nghèo với dập dìu khói bay/ Còn đâu ruộng nước trâu cày/ Vẫn đi qua ngõ lối này còn ai.
            Mỗi cung bậc xúc cảm, mỗi ý thức trỗi dậy vấn tìm bản ngã, đều ghi dấu ấn mãnh liệt trong khoảnh khắc thơ Nguyên Linh khi hoài nhớ tới hình bóng con đò xưa, con đò của nghệ thuật ẩn dụ và con đò bên bến đời thực tại, nào có cách xa nhau, đôi khi cái khoảng cách biên giới ấy chỉ đủ giấu một tiếng thở dài, một sự phiền muộn than trách cuộc đời sao nhiều điên đảo, đầy mưu mô và toan tính, những kẻ tiểu nhân đắc chí tiến thân bằng con đường lừa thầy phản bạn, phản nhân sinh. Ừ thì có khác gì nhau, vẫn là người với người đấy thôi. Trong cái nhìn đầy nhân bản ấy, đôi lúc những mối quan hệ phức tạp từ cuộc sống thường nhật mang đến cũng có nhiều điều thú vị lắm đấy, nhất khi ta chịu mở lòng quan sát: Khác gì bến nước, con đò/ Khác gì non nước bến bờ vần xoay/... /Chúng ta gắn bó tấm lòng/ Khác gì vàng đá để mong trọn đời.
Chọn cách so sánh ngược, ví von ngầm mà hóm hỉnh tươi mới, là biểu hiện của tính trí tuệ, sau hàng loạt hình ảnh thơ đầy ngẫu tượng từ thiên nhiên cuộc sống xung quanh, mà mở đầu lại là hình ảnh con đò và bến nước để đi đến cái đích cuối cùng là mối quan hệ biểu hiện với dạng thức cao nhất là con người với con người, và hình tượng con đò vẫn thực hiện đúng chức năng “chuyên chở” của nó khiến tư tưởng tác phẩm thơ càng thêm sáng, cũng là một cách thể hiện riêng có của thơ Nguyên Linh.
Với 4 bài thơ đề cập đến hình tượng con đò, hình như Nguyên Linh muốn trình dẫn ra trước người đọc một mối quan tâm đặc biệt của mình trước vấn đề phát triển nông thôn ngày hôm nay và hình như tham vọng của ông còn sâu hơn nữa, ý thức bảo vệ nguồn văn hoá cổ truyền Việt Nam đã bắt sâu cội rễ vào đời sống dân gian hàng ngàn năm đang bị mai một, lãng quên dần trước sự phát triển ồ ạt của kinh tế, và văn hoá đa dạng, đa chiều. Biểu tượng con đò trong trang thơ Nguyên Linh, một nút thắt nhân sinh giữa cuộc sống neo giữ tâm hồn người Việt với văn hoá Việt ngàn xưa.


   



MÁI ĐÌNH QUÊ HỒN QUÊ TẬP THƠ CỦA NGUYỄN ĐÌNH NGHỊ



MÁI ĐÌNH QUÊ HỒN QUÊ
TẬP THƠ CỦA NGUYỄN ĐÌNH NGHỊ

Khi nhận được tập thơ thứ hai của Nguyễn Đình Nghị có tiêu đề Mái đình hồn quê; Nhà xuất bản Hội Nhà văn 2010, dù chưa vội đọc, tôi đã chìm đắm trong trạng thái vừa mừng, vừa lo. Mừng vì nếu ở tập Mái đình hồn quê nếu Nguyễn Đình Nghị còn giữ nguyên được phong cách và thái độ sáng tạo nghiêm túc, thận trọng, hướng nội và sự tinh tế trong giao thức cảm nhận riêng như ông đã thể hiện ở Trăng khuyết hạ tuần thì tập thơ thứ hai này của ông quả thật sẽ không phụ lòng mong mỏi của bạn đọc. Lo lắng bởi với công sức và thời lượng ông dành cho sự ra đời một tập thơ trong hoàn cảnh như thế, trong thời điểm như thế, có lẽ chỉ nhằm tới một mục đích, như là cách để ghi lại dấu ấn nhân dịp kỷ niệm ngàn năm, hoặc như một món quà kỷ niệm bạn bè trong dịp diễn ra đại lễ như đại đa số người “vui mà làm thơ” khác, tất nhiên tập thơ sẽ không còn được chăm chút đúng mực về mọi điều kiện tối thiểu mà nó cần phải có, (chưa mạn bàn về chất lượng nghệ thuật), lý do là thế.
Những đoán định của tôi, tất nhiên cũng có nhiều sự không hoàn toàn logic và có thể không phù hợp với Mái đình hồn quê, nhưng cũng không phải không có cơ sở hoặc phù phiếm trong nhận định, bởi vì sau khi đã đọc trọn vẹn cả tập thơ, tôi bỗng phát hiện ra điểm đáng lưu ý nhất, có sức thu hút sự tò mò của tôi lại nằm ở cấu trúc nội tại và cách thức phân bổ đề tài cũng như tỷ lệ cần thiết cho từng mảng chủ đề, nội dung trong tập thơ đề cập đến. Thú thực chính điểm này đã đem lại cho tôi ấn tượng “giả” về cách “chơi” của nghệ thuật sắp đặt, trình diễn văn bản nơi ông. Chỉ bằng một cú text đơn giản nhất, tôi đã có thể phân tích sơ qua cách thức gây sự chú ý, thậm chí bất ngờ cho tôi, một độc giả, qua sự chọn lựa tiêu đề cho tập thơ bằng biểu tượng mái đình (không gian đặc trưng cho miền văn hoá làng xã) và hồn quê (cái nôi của nền văn minh nông nghiệp). Lợi thế của phương thức này ở chỗ cặp biểu tượng đó như một mặc định sẵn trong tâm thức người đọc, chỉ cần nhắc hay gợi đến, tự bản thân nó đã ngầm được hiểu và có thể xem đó là mạch chảy chủ đạo (mang tính nội hàm), quyết định toàn bộ hồn cốt (chất lượng nghệ thuật) của tác phẩm, nhưng nếu nội dung từng tác phẩm thơ lại không đề cập đến, hoặc đề cập hết sức hạn chế vấn đề đã đặt ra thì sao đây.
Tôi đã thử đặt nó vào một góc nhìn khoáng đạt hơn, có tính bao quát tổng thể, và khoa học hơn, khi xét theo không gian thơ bên trong cái cấu trúc so lệch ấy như một hiện thực ngẫu nhiên, ấn tượng trái chiều của nghịch lý sắp xếp trình diễn bố cục, thật bất ngờ tôi đã bắt gặp một không gian thơ trải dài, liên tục, tuần tự như một hành trình lập làng, mở đất của cha ông một thuở xa xưa.
Nhớ đình xưa tế thần linh
Hai ta hưởng lộc sân đình cháo hoa
Chim xa nhớ tổ đa già
Đình soi hồ nước sen hoa giữa làng.
Vậy là ấn tượng ám ảnh đầu tiên đã xuất hiện từ một sự hoài niệm về một mái đình đã mất vì chiến tranh, vì sự đối xử không văn hoá với một di sản văn hoá của “đối tượng người”:
Đình xưa giặc pháp xoá nhoà
Xoá bao kỷ niệm giữa ta với mình
...
Ước gì đình lại khang trang
Cho tôi về hội gặp nàng yêu xưa
...
Đường quê dạo bước thênh thang
Bâng khuâng nhớ tiếc đình làng năm xưa.
Chỉ vậy thôi, chỉ là nhớ tiếc một thời đã qua, nhớ và tiếc cho một di sản đặc trưng cho tâm thế làng xã, cũng có thể xem đó chính là cái hồn quê mà Nguyễn Đình Nghị muốn gửi gắm chăng.
Chưa thể kết luận vội vã, ở trong mảng đề tài viết về làng quê, tôi còn gặp thấp thoáng những bóng dáng làng cổ thuần Việt, chỉ cần nhắc đến cái tên làng cũng đủ giúp người đọc gợi về một quá vãng xa xôi:
Cùng khoai chung thuỷ tình đầu
Từ khi khai khẩn sậy lau lập làng.
Trong không gian thuần hậu ấy, hồn quê hiện ra chân chất, mà đậm đà, thiết thực cùng lối cảm, lối nghĩ của người dân quê, về mảnh đất quê ngàn năm còn sống mãi, khiến mỗi tên làng, tên đất cũng trở lên gần gũi thân quen, thành nếp nghĩ:
Xưa kia ai đặt tên làng?
Mang danh loại củ khoai lang bãi đồng
Hay điền cao thấp nắng dông
Chiêm khê mùa thối tính trồng khoai dây. 
Đơn giản vậy đấy nhưng lại có sức sống bền bỉ, khó quên, dù vật đổi sao rời, dù cái tên làng có được “nâng cấp” thêm những mĩ tự, nhưng cái tên mộc mạc kia trong tâm thức người dân đâu dễ đổi thay bởi nó đã trở thành cái hồn thiêng muôn thuở tồn tại cùng sông núi:
Dù cho cũ mới khác danh
Vẫn dân chất phác hiền lành củ khoai.
Nếu tên làng là điểm neo giữ tâm tình người đi xa, mỗi lúc nhớ về thì hệ thống “Cây đa, bến nước, sân đình” sẽ là những sợi dây thít chặt, là nền tảng, điểm mốc cho hồn quê gửi gắm vào trong đó, Nguyễn Đình Nghị đã phác hoạ nhanh hình ảnh chiếc giếng tuổi hoa niên, như một ánh gương soi đầy tính tương phản giữa quá vãng và hiện thực.
Tròn vạnh long lanh cuối luỹ làng
Hằng nga e thẹn kéo mây ngang
Đôi ta tình tự bên thành giếng
Dưới tán đa che ngát lúa vàng.
Tất cả theo thời gian và theo mỗi cấp độ phát triển mới của cuộc sống, lại đứng trước sự vô tình của con người bị đang quay cuồng giữa cuộc mưu sinh, đã dần đi vào quên lãng, khuất lấp, thậm chí bị chôn vùi mãi mãi. Cái làng quê của Nguyễn Đình Nghị cũng đâu còn nguyên vẹn với cảnh xưa người cũ, nhưng may mắn làm sao khi bước chân nặng trĩu ưu tư của người con xa quê trở về, đã may mắn được đằm mình trong bến nước xưa, trong màu tím của cánh hoa bèo, dân dã mà thuỷ chung để ôn lại một thời:
Quê mẹ về thăm ngắm cảnh ao
Ngữ như hoa tím nở mừng chào
...
Cầu cấp mải chơi bẹ chuối thuyền
Hái hoa bèo tím cắm cờ biên
...
Hoa tím trao tay lòng nhớ mãi
Ước gì còn sống đáp công lao.
Mọi cuộc ra đi trong cuộc đời đều có mục đích duy nhất để đón đợi giây phút trở về, đất mẹ quê hương luôn rộng vòng tay đón nhận chở che những đứa con mình, chẳng kể tà ác, sang hèn khi chúng đã gửi gắm tấm thân về nơi vĩnh hằng, vì thế mỗi làng quê Việt Nam  đều có những khu nghĩa trang dành riêng cho những con người ưu tú dám xả thân hy sinh vì tổ quốc, Nguyễn Đình Nghị đã lựa chọn chi tiết thơ này để kết thúc mảng thơ đề tài về làng quê, ông đã tận dụng triệt để hình ảnh linh thiêng ấy để làm bật sáng cái hồn cốt làng quê một cách xuất sắc và giàu biểu cảm:
Bạch đàn tán nhãn nhạc ve ru
Đất mẹ ấm êm giấc ngủ bù
Cho bõ sa trường say chiến thắng
Tình quê nguồn cội chốn thiên thu.
 Mảng thơ triển khai về đề tài làng quê của Nguyễn Đình Nghị quả thực rất hạn chế về số lượng so với các mảng đề tài khác, vì thế đã tạo ra sự chênh lệch quá lớn về tỷ lệ phân bổ không gian thơ cho mạch thơ chủ đạo làm nên diện mạo Mái đình hồn quê. Nhưng ở bài mở đầu cho tập thơ, người đọc đã bắt gặp sự cảm hoài Nhớ mái đình xưa, rồi lần lượt là; Làng khoai; Giếng làng; Hoa lục bình; Mẹ tôi; Cha tôi; Viếng nghĩa trang với các hình ảnh đặc tả mái đình, tên làng cổ, cái giếng, hoa bèo bến nước, người mẹ, người cha và cuối cùng là hình ảnh cái nghĩa trang, điểm neo đậu cuối cùng của mỗi kiếp người. Ở đó các khối không gian cứ lần lượt và tuần tự diễn ra trên trang giấy như một quá trình vận động của cuộc sống. Điều đó đã đánh tan sự nghi ngờ trong nhận thức của tôi khi nghĩ rằng Nguyễn Đình Nghị đã tạo ra ấn tượng “giả” về cách “chơi” của nghệ thuật sắp đặt, trình diễn văn bản khi lựa chọn đặt tiêu đề chung cho toàn tập thơ là Mái đình hồn quê.