Hành trang của
kiếp phù
sinh trong luân hồi là gì nhỉ? Không ít lần tôi băn khoăn tự vấn, mong tìm lấy
riêng mình một hướng nhìn, một góc độ cảm quan của /cho/ ánh nhìn…Vâng! Ánh
nhìn nhân sinh, nhân bản, nhân thế!... Tôi sẽ phải đứng ở góc độ nào đây, lựa
chọn vị thế /không gian/ nào đây để tìm và nhận được câu trả lời thoả đáng…
Tập thơ “Cỏ dại” của Vũ Quang Côn (do Nhà xuất bản Hội nhà văn ấn hành quí I
năm 2009), gồm 79 bài thơ, xây dựng trên nguồn cảm hứng sáng tạo dồi dào, được chắt
gạn từ những thi liệu quý giá của cuộc sống, cùng những dòng xúc cảm thẫm đẫm hơi
thở “nghiệm sinh” thoát ra từ sâu thẳm tâm thức thi nhân, đau đáu nỗi niềm trăn
trở, hướng
vọng về tồn sinh, khao khát kiếm tìm bản thể (sự trở về từ vô thức), là lời giải
đáp cho câu hỏi nêu trên!
Thật thế! Khi xét tổng thể nội dung tư
tưởng nghệ thuật và cấu trúc nghệ thuật tập thơ với nhiều mối quan hệ đan xen
mà trong đó chủ thể trữ tình và đối tượng trữ tình; đối tượng biểu đạt và được biểu
đạt, gần
như hoà quện vào nhau, nhập nhoà ranh giới hữu hạn/ vô hạn, hữu/ vô (tính/ lý/ thức) sau lớp lớp ngữ ngôn linh hoạt, uyển
chuyển, đem lại hàm lượng thông tin cao nhất, hiệu quả nhất tới độc giả qua những thủ pháp được tác giả
khai thác sử dụng đạt tới ngưỡng nhuần
nhuyễn của thi pháp học.
Như
người nghệ sĩ
dân gian cần mẫn, sáng tạo, gom nhặt từ
cuộc sống dân dã từng hình mẫu, từng trạng thái cảm xúc, từng động tác chi tiết,
hành động điển hình của người nông dân sống và
quen sống
trong vùng văn minh /văn hoá/ lúa nước, đau
đáu thai nghén và thổi hồn
vào từng
màn rối
nước đặc
sắc, nét tinh hoa ngàn năm
đã lắng đọng lại
trên khuôn mặt chú
Tễu hồn
hậu qua nụ cười
tự tại
thảnh thơi, bên đám trai làng hối
hả, phấn khích trò nơm
cá, rộn ràng từng tư
thế, thao tác, v.v… đã
được thế giới
ghi nhận và trân trọng gìn giữ bảo
tồn là
bản sắc
văn hoá dân tộc Việt. Cái sự đau đáu kiếm tìm, trăn trở trước
câu hỏi nhân sinh, nhân bản ấy, là dòng chảy
ngầm xuyên
suốt tập thơ “Cỏ
dại”
của Vũ
Quang Côn, nó có sức
lướt qua tất cả
những thủ pháp, kỹ thuật,
kỹ xảo
tinh vi của người “chủ ý làm thơ”,
nó viên mãn quện hoà, thống nhất
cùng luồng tư tưởng chủ
đạo, là nguồn
nước mát rỉ rả
ươm tưới cho dòng thi hứng/ thi cảm từng bài
thơ trong suốt hành trình “Cỏ
Dại”,
là “môi
trường tương tác” dưỡng nuôi và phát triển
ý đồ nghệ thuật của
thi nhân trên hệ thống các nhân vật, biểu tượng, được
biểu hiện rõ rệt qua các bài Di
chỉ Hoàng thành; Chiều phố cổ;
Thu Văn
Miếu; Đồi cát niền
trung; Nhớ tuổi thơ
bên mẹ; Viếng mộ Lev
Tôn – xtôi,v.v… Ý thức
kiếm tìm
tận chân ý thức sáng tạo - trở về
nguồn cội, nét đẹp tâm linh của hồn
dân tộc: Sống trên người
đó người ơi/
Ta vô tư
quá để rồi ngẩn ngơ…Ngậm ngùi đây
Lý Trần Lê…/ Mắt rưng
rưng
lệ lòng se sắt
lòng. Di chỉ Hoàng thành; để
rồi thao thức, trăn trở,
thai nghén ý tưởng thơ của
người “Phu
chữ” (Lê Đạt)
trước “sự tìm về” là
đây: Hạt
nắng lăn
từ thủa cũ/ Mái chùa nặng
trĩu ngày xưa…/
Hồn cha tìm trong ngọn
gió / Nâng bóng ngàn năm
trên tay. Chiều phố cổ; hay …Tim
người đau nhói đến giờ còn đau …/
Người là người của nhân gian/ Sách Người vẫn đặt trên bàn hôm nay. Viếng mộ Lev Tôn xtôi. Cao xanh kia mẹ lấp lánh một vì sao/ Con
ngửa mặt lên trời cầu mẹ nơi nao!/ Trở lại đi, trở lại đi, đâu rồi ngày ấy/ …Ta
khóc nhiều nước mắt đọng quanh mi…/ Tuổi xế chiều vẫn thấy lòng khóc mãi…Nhớ tuổi thơ bên mẹ. Hai nhân vật Mẹ và
Con, hai chủ thể trữ tình xuất hiện và quấn quện trong nhau; nâng đỡ, phù trợ
cho nhau đi suốt chiều dọc xúc cảm bài thơ, tạo cho bài thơ một không gian “cảm
thức” bao la rộng mở hơn, kết hợp cùng điệp ngữ “trở lại đi, trở lại đi” ở đầu khổ kết cùng thủ pháp “phân mảng”, dẫn
lối tư duy bậc thang, thành “hiệu ứng” xúc cảm thẩm mĩ trong tâm khảm người đọc,
khiến bài thơ có một giá trị nghệ thuật
riêng nó và hình ảnh người mẹ qua đó đã trở thành siêu biểu tượng văn học.
Tiếng nói
của tâm hồn hướng vọng tồn sinh như nét nhạc trầm trong Bản hùng ca đại vũ trụ,
nét nhạc ấy không vang vang lảnh lót nhưng tự bản chất hàm chứa/ tàng ẩn sức
mạnh của tâm thế tự tại, hào sảng, bao dung giữa thiên nhiên phóng khoáng: Đâu đây phảng phất hương thương nhớ/ …Bàn
tay vừa vướng hoa xuân nợ/ Môi cảm nồng nàn gió ngất ngây - Cảm xuân. Nét nhạc ấy không loang theo
bề nổi con chữ, không mong mỏi giãi bày ngữ nghĩa, không nỉ non gượng ép người
nghe, mà mạnh mẽ rộn ràng thẩm thấu vào tâm khảm người đọc, cộng hưởng với “tần
số dao động” đang ngân nga trong trái tim người đọc, dọc hành trình tìm đến với
“cỏ dại” /phận người: Bỗng bồi hồi gặp
dòng sông đỏ/ Bãi ngô xanh đang trăn trở gió chiều, hay …Ta tìm vết chân em giấu dưới vỉa hè/ Tìm
dáng ngày qua trên những ô cửa nhỏ - Với
kỷ niệm xưa ; hoặc Triệu năm đá hoá
dòng sông/ Trăm năm hồn hoá cầu mong của hồn…/trăm năm duyên nợ mỏi mòn/ Một
chiều thương nhớ mãi còn tươi xanh – Duyên
nợ; có khi thành niềm thương quá vãng, hoài niệm nhân thế hết sức nhuần
nhuỵ, tinh tế, “đồng thanh tương ứng”: Tiếng
chày xưa vẫn theo xa/ Nghe hương cốm mới nhận ra đồng làng – xa quê; có lúc thành sự thảng thốt giật
mình khi cảm nhận sự tha hoá tự bản chất vạn vật: Trăng non dõi bóng hoàng hôn/ Đồng quê nhuộm đỏ sắc hồn thinh không/
Chân gầy bước giữa mênh mông/ Rưng rưng men cỏ dậy trong tim mình. - Về quê. Chính sự đa nghĩa của thơ đã
giúp cho “tiếng trầm” của nốt nhạc thơ trong “Cỏ dại” gợi sức ám thị lạ lùng
với “Một chiều thương nhớ” vừa hàm
ngụ hướng tư duy về không gian, vừa là đơn vị thời gian, với Tiếng chày xưa vẫn theo xa và Nghe hương cốm mới nhận ra đồng làng,
thì đã xuất hiện sự bùng nổ văn bản, cái tinh, thâm, diệu, vi đã đạt đến cấp độ
cao, qua hai trạng thái của ý thức vào sự hoá thân của biểu tượng thơ /tiếng chày - thực; vẫn theo xa - ảo hoá; Hương
cốm mới - thực tại/ hiện tồn; Nghe
- ảo hoá, về cấu trúc luận “Nghe hương
cốm mới nhận ra… chung mô típ với Một
chiều thương nhớ…” qua đó ta hiểu thêm về nghệ thuật sử dụng thi pháp học
của tác giả. Và điều cốt yếu nhất tất cả hiện /vẫn /đang là nền tảng cơ sở cho
tư tưởng nghệ thuật “Cỏ dại”.
Và cái đích
nhân sinh, nhân bản của kiếp người gói trọn trong hành trình trở về - dù vô
thức hay hữu thức – tìm lại bản ngã Con Người : Tóc ai như gió vờn mây/ Thân ai dấu kín sau cây với cành…/ Gió lay
buông dải lụa chiều/ Ta đưa tay bắt những điều vu vơ… Những điều vu vơ; trải qua bao sự giằng xé trải nghiệm – dù chỉ là
một mầm cây vô tư chồi lên từ mặt đất: Rồi
đây bao những thân non ấy/ có lắm đua chen mới trưởng thành - Mầm, tưởng đơn giản, dung dị là vậy; nhưng
ẩn giấu sau đó là cả một quá trình từng trải, chắt lọc, thể nghiệm để hướng
tới, để vươn lên. Những câu thơ thấm đẫm triết luận nhân sinh: Thời gian trôi qua mặt người/ Không gian
thay đổi trên trời rộng/ Tình yêu đến như gặp người trong mộng/ Nỗi đau ẩn mình
khắp nơi – Không đề 3; Hoa hướng dương nở bừng trong nắng sớm/
Những chùm lê trĩu sệt mặt đường/Hàng bách diệp hai màu đông hạ/ Cây anh đào
mang triệu mặt trời con - Một thoáng
Ekxentukii; tất cả, tất cả những thi ảnh ấy, những chu kỳ sinh học rực rỡ
nhất ấy của thiên nhiên đều trở thành ánh đuốc soi sáng cho cái Ta xúc cảm, nó
là lời tâm sự của một tâm trạng xa quê hương xứ sở của một trạng thái trĩu nặng
ưu tư của một tấm lòng tri ân với cội nguồn lịch sử mang dấu ấn thế hệ của một
hồn thơ lạc quan tin tưởng vào ánh sáng văn minh nhân loại (triệu mặt trời con
- mặt trời biểu tượng của ánh sáng trí tuệ minh triết), Ta tự hỏi bánh xe trần ai sắp đặt/ Để ta lăn lóc cóc một đời người -
Tự hỏi; để rồi từ đó - dưới ánh sáng của tri thức thì sự trở/ tìm về
ấy chính là hành trình tìm lại bản ngã chủ thể sáng tạo Ta trong ta!
Hành trang
cho kiếp phù sinh của kiếp thi nhân chính là Thơ; tập thơ “Cỏ dại” của Vũ Quang
Côn là một trong những viên gạch lát đường tất yếu trong hành trình nghệ thuật
thi ca của riêng anh. Hành trang cho kiếp phù sinh trong “Cỏ dại” chính là sự đau đáu nỗi niềm trăn trở, hướng vọng về tồn sinh, khao khát kiếm tìm
bản thể, vươn tới sự tận chân, tận thiện, tận mĩ.
Khép lại tập thơ, bỏ qua một vài mặt
còn hạn chế như; nhiều bài thơ tác giả quá chú trọng đến âm luật, vần điệu, tuân
thủ triệt để theo lô gíc cuộc sống nên dễ
gây cảm giác
đơn
điệu sáo
cũ, nhưng dư âm và sức ám thị của nó vẫn /và
còn/ và đang còn/ theo đuổi trong tiềm thức bạn đọc. Phải chăng đó chính là sức
sống mạnh mẽ, tiềm tàng trong thơ Vũ Quang Côn.
Hà
nội / 4 – 2009.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét